YOMEDIA
NONE
  • Câu hỏi:

    Tính tất yếu và thực chất của cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện.

    Lời giải tham khảo:

    Tính tất yếu và ý nghĩa của việc ra đời chủ nghĩa Mác-Lênin?

    “Sự ra đời và phát triển của triết học Mác không phải từ mãnh đất trống không hoang dã mà là sự kế thừa có chọn lọc, có phê phán thành tựu lý luận mà nhân loại đã đạt được trước đó, trên cơ sở những thành tựu khoa học tự  nhiên đương thời cùng với những yếu tố chủ quan của Mác-Angghen trong một giai đoạn lịch sử nhất định”.

    Trong giai đoạn lịch sử này đã hội tụ được 3 tiền đề và yếu tố chủ quan của mác-Anghhen để ra đời triết học Mác:

    Những tiền đề:

    • Điều kiện kinh tế-xã hội: Vào những năm 40 triết học thế kỷ XIX, xã hội tây âu có những biến động to lớn & điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển của triết học Mác, bởi vì tư duy lý luận của mỗi thời đại là sản phẩm của lịch sử và điều kiện kinh tế xã hội của lịch sử lúc bấy giờ. Đây là quan điểm nhất nguyên luận duy vật về lịch sử.
    • Vào thời kỳ này ở tây âu phương thức sản xuất (PTSX) tư bản chủ nghĩa (TBCN) đã đạt được những bước tiến hết sức quan trọng nó ảnh hưởng đến tư duy lý luận của thời đại. Điều đáng chú ý nhất về kinh tế của thời kỳ này là sự phát triển của lực lượng sản xuất điều đó được đánh dấu bởi sự xuất hiện của công nghiệp chế tạo máy và việc áp dụng nó vào trong quá trình SX. Trong các nước tây âu lúc bấy giờ Pháp là một trong những nước có nền kinh tế tương đối phát triển số lượng máy hơi nước tương đối nhiều. Năm 1830 nước Pháp có 625 máy hơi nước nhưng đến năm 1847 đã có 4853 máy hơi nước trong đó có các nước Đức, Anh thì số lượng máy hơi nước ít hơn nhiều (số lượng máy hơi nước đánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của dân tộc, của thời đại.
    • Sự phát triển về mặt kinh tế dẫn đến những biến đổi trong đời sống XH. Lực lượng sản xuất phát triển làm cho mâu thuẩn giữa giai cấp vô sản (GCVS) và giai cấp tư sản (GCTS) ngày càng trở nên gay gắt, các cuộc bãi công biểu tình xuất hiện ngày càng nhiều và hầu khắp các nước tư bản. Trong đó đáng chú ý nhất là cuộc bãi công của công nhân dệt của thành phố Lion, Pháp, tháng 11/1831 tiếp đến là phong trào hiến chương nhân dân ở Anh tháng 6/1836 và sau đó là cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở Đức tháng 6/1844… các phong trào này đòi hỏi phải có lý luận dẫn đường. Sự ra đời của triết học Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung là nhằm đáp ứng đòi hỏi của lịch sử đặt ra.

    Tiền đề khoa học tự nhiên.

    Vào thời đại của Mác và Ăngghen, khoa học tự nhiên đạt được những thành tựu đáng kể, chính những thành tựu này đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành quan điểm duy vật cũng như phương pháp biện chứng của Mác và Ăngghen. Trong số đó có 3 phát minh mang tính chất vạch thời đại đó là: (1) Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng (1842-1845); (2) Học thuyết tế bào; (3) Học thuyết tiến hóa của Đác Uyn.

    • Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lương đã dẫn đến kết luận triết học là sự phát triển của vật chất là một quá trình vô tận của sự chuyển hoá những hình thức vận động của chúng.
    • Thuyết tế bào xác định sự thống nhất về mặt nguồn gốc và hình thức giữa động vật và thực vật;
    • Thuyết tiến hoá của Đác uyn đã khắc phục được quan điểm cho rằng giữa thực vật và động vật không có sự liên hệ; là bất biến; do Thượng Đế tạo ra và đem lại cho sinh học cơ sở khoa học, xác định tính biến dị và di truyền giữa các loài. 

    Ba phát minh này đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển của triết học Mác và Ăngghen, có viết rằng “Nhờ 3 phát hiện vĩ đại đó và nhờ những thành tựu lớn lao khác của KH tự nhiên mà ngày nay chúng ta có thể chứng minh những nét lớn của mối liên hệ giữa các quá trình của tự nhiên, không những trong các lĩnh vực riêng biệt mà cả mối liên hệ giữa các lĩnh vực riêng biệt ấy nói chung và có thể trình bày một bức tranh bao quát về mối liên hệ trong tự nhiên dưới hình thức gần như có hệ thống bằng các sự kiện do chính KH tự nhiên thực nghiệm cung cấp.

    Tiền đề lý luận

    • Sự xuất hiện của triết học Mác là kết quả của sự kế thừa có chọn lọc, có phê phán có phát triển những thành tựu lý luận của nhân loại đã đạt được lúc đó. Trong đó trực tiếp là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học cổ điển Anh và CNXH học Pháp. Trong đó triết học cổ điển Đức giữ một vai trò hết sức quan trọng (có 3 nhân vật: Người mở đầu là Ông Can-tơ, Hêghen, Phoi ơ Bắc).
    • Hêghen là nhà triết học duy tâm Đức (1770-1831): Công lao lớn nhất của ông về mặt triết học đó cũng là đóng góp quan trọng nhất của Hêghen là phép biện chứng (BC) đầy đủ và có hệ thống là các qui luật của phép BC, nhưng rất tiếc phép BC của Hêghen lại là phép BC duy tâm không dùng được là đi ngược đầu xuống đất. Trong phép BC của Heghen thì “Nguyên lý về sự phát triển” được coi là hạt nhân trong phép BC của Heghen. Ông coi sự vật và hiện tượng ở trong quá trình biến đổi, phát triển không ngừng. Sự vận động biến đổi này là do “ý niệm tuyệt đối” chi phối. Từ Ý niệm tuyệt đối Tha hóa biến thành giới tự nhiên (có XH loài người), giới tự nhiên tha hóa quay về ý niệm tuyệt đối 3 giãi dquá trình diễn ra phức tạp.
    • Phoi Ở Bắc (1804-1872). Ông được coi là nhà duy vật kiệt xuất. Về cơ bản Phoi Ơ Bắc là một nhà duy vật khi ông luận giải những vấn đề liên quan đến giới tự nhiên, nhưng khi ông giải thích một số vấn đề trong đời sống XH nhất là về đạo đức, tôn giáo, bản chất con người … thì ông rơi vào quan điểm duy tâm, chính vì vậy Mác gọi ông là nhà duy vật nửa vời, nửa dưới thì duy vật (tự nhiên), nửa trên thì duy tâm (đời sống XH loài người như là đạo đức, tình yêu, cuộc sống à duy tâm)
    • C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa có phê phán triết học cổ điển Đức, đặc biệt là phép biện chứng duy tâm của Heghen và tư tưởng duy vật của Phoi Ở Bắc về những vấn đề cơ bản của triết học để xây dựng nên phép biện chứng duy vật và mở rộng nhận thức sang cả xã hội loài người (Chủ nghĩa duy vật lịch sử), làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và triệt để.
    • Kinh tế chính trị học Anh mà đặc biệt là lý luận về kinh tế hàng hóa:Việc cải tạo có phê phán những gì có giá trị trong kinh tế chính trị cổ điển Anh có vai trò hết sức to lớn trong việc sáng lập triết học Mác, nếu không có sự cải tạo này thì không thể phát hiện ra Học thuyết giá trị thặng dư, không thể sáng lập ra quan điểm duy vật của lịch sử do đó không thể khắc phục được tính chất không triệt để của chủ nghĩa duy vật (CNDV) trước đây.
    • Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những dự đoán thiên tài mà trước hết là lịch sử loài người là một quá trình tiến hóa không ngừng, chế độ sau tiến bộ hơn chế độ trước; rằng sự xuất hiện các giai cấp đối kháng trong xã hội là kết quả của sự chiếm đoạt; đồng thời phê phán chủ nghĩa tư bản là ở đó con người bị bóc lột và lừa bịp, chính phủ không quan tâm tới dân nghèo. Khẳng định xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội công nghiệp mà trong đó, công nông nghiệp đều được khuyến khích, đa số người lao động được bảo đảm những điều kiện vật chất cho cuộc sống v.v là cơ sở để chủ nghĩa Mác phát triển thành lý luận cải tạo xã hội. Mác và Ăngghen đã nghiên cứu có phê phán những tư tưởng XHCN và cộng sản chủ nghĩa của các nhà XH không tưởng Pháp (như Xanh xê mông và Phurie và của Cô en). Sự nghiên cứu này đã giúp cho Mác và Ăngghen phê phán một cách khoa học xã hội TBCN và dự báo một cách khoa học con đường phát triển và những đặc điểm quan trọng của XH tương lai, đó là XH cộng sản chủ nghĩa

    Vai trò chủ quan:

    Các tiền đề nêu trên là điều kiện cần và vai trò chủ quan của Mác-Angghen xuất hiện đúng lúc, phù hợp thực tiễn là mãnh ghép còn lại tạo nên điều kiện đủ của bước ngoặc cách mạng lịch sử triết học lúc bấy giờ. Các tiền đề và nhân tố chủ quan thống nhất và tác động, ảnh hưởng lẫn nhau để cho ra đời triết học Mác.

    Yếu tố chủ quan thể hiện ở các điểm các điểm cơ bản như sau:

    • Điểm xuất phát của Mác và Ăng ghen đều là nhà triết học duy tâm, sau đó các ông mới chuyển từ lập trường duy tâm sang lập trường nhà dân chủ cách mạng, rồi mới chuyển thành một nhà triết học duy vật biện chứng đứng trên quan điểm một người cộng sản.
    • Phẩm chất trí tuệ thiên bẩm của cả Mác và Angghen trong nhận thức và tiếp thu tri thức nhân loại trong đó có niềm say mê triết học (Mác bảo vệ luận án tiến sĩ năm 23 tuổi; Ăng ghen tự học và rất giỏi về triết học và các môn khoa học tự nhiên).
    • Cả 2 ông đều có lòng yêu thương con người, yêu tự do, thấu hiểu được đời sống vất vã của công nhân, nhân dân lao động. Từ đó Mác và Ăng ghen chuyển từ thế giới quan duy tâm sang thế giới quan duy vật và từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản chủ nghĩa.
    • Cả 2 ông đã hy sinh không mệt mõi vì sự nghiệp giải phóng con người với một niềm tin mãnh liệt, qua hoạt động thực tiễn, liên tục tổng kết thực tiễn Mác và Angghen đã hình thành hệ thống lý luận chủ nghĩa Mác mà trung tâm là Triết học duy vật biện chứng.

    Tóm lại: Tất cả những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trên thống nhất với nhau, liên hệ, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, cùng nhau làm cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng là một tất yếu khách quan mang tính lịch. Sự ra đời của triết học Mác là sự kế thừa những thành tựu trong lý luận và được kiểm chứng bằng các thành tựu của khoa học và thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, là sự phát triển họp quy luật của lịch sử tư tưởng nhân loại. Đứng trên quan điểm duy vật lịch sử, việc ra đời chủ nghĩa Mác là tất nhiên khách quan bởi vì nếu Mác không xuất hiện sẽ có người khác thay thế ông, nhưng trong số đó Mác và Ăng ghen là những người thích hợp nhất, là yếu tố ngẫu nhiên của lịch sử triết học.

    Thực chất của cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ảngghen thực hiện

    • Thực chất của cuộc cách mạng trong lịch sử triết học do C.Mác thực hiện là ở chỗ, khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng để tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng; sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử; đưa triết học trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới; thiết lập mối liên minh giữa triết học và các khoa học cụ thể. Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng đó vẫn giữ nguyên ý nghĩa to lớn của nó trong việc phát triển triết học Mác - Lênin, bởi nó là một hệ thống mở, gắn bó hữu cơ với thực tiễn cách mạng của quần chúng nhân dân, với các khoa học cụ thể.
    • Sự ra đời và phát triển của triết học Mác thực sự tạo nên một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử phát triển tư tưởng triết học của nhân loại, tính chất cách mạng đó được thể hiện cả trong quan điểm lẫn phương pháp triết học, đó là chủ nghĩa duy vật triệt để (duy vật trong tự nhiên lẫn trong xả hội) và phương pháp biện chứng khoa học. Trong triết học Mác có sự thống nhất chặt chẽ giữa chủ nhĩa duy vật với phương pháp biện chứng, nghĩa là duy vật là duy vật biện chứng, biện chứng là biện chứng duy vật. (Khẳng định tính chất cách mạng trong triết học Mác)
    • Trước khi triết học Mác ra đời, trong suốt chiều dài lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật thường tách khỏi phương pháp biện chứng. Trong triết học Hy Lạp cổ đại, có thể nói, đã có sự thống nhất nhất định giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng ở một số nhà triết học duy vật. Sự thống nhất này được thể hiện rõ nhất trong triết học của Hêraclít. Tuy nhiên, sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng trong triết học của Hêraclít còn ở trình độ thấp. Hơn nữa, cả chủ nghĩa duy vật lẫn phương pháp biện chứng của Hêraclít đều còn ở trình độ thô sơ, chất phác, đúng như Ph.Ăngghen đã đánh giá: "Cái thế giới quan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực chất thì đúng đó là thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã được Hêraclít trình bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều không ngừng phát sinh và tiêu vong"(1).
    • Ở thời kỳ Phục hưng và Cận đại, chủ nghĩa duy vật đã có bước phát triển về chất so với chủ nghĩa duy vật thời Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật thời kỳ này, về cơ bản, vẫn là chủ nghĩa duy vật siêu hình. Nghĩa là chủ nghĩa duy vật vẫn tách rời phương pháp biện chứng. Các nhà triết học cổ điển Đức, nhất là Hêghen, đã đối lập phương pháp biện chứng với phương pháp siêu hình, tạo ra một giai đoạn phát triển về chất trong phương pháp nhận thức. Tuy nhiên, phương pháp biện chứng của Hêghen lại dựa trên nền thế giới quan duy tâm. Nói khác đi, phương pháp biện chứng của Hêghen không gắn kết hữu cơ với chủ nghĩa duy vật, mà gắn kết hữu cơ với chủ nghĩa duy tâm. Cho nên, phương pháp biện chứng đó không thực sự trở thành khoa học, mặc dù nó có đóng góp nhất định cho sự phát triển tư duy nhân loại. Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật trước Mác là chủ nghĩa duy vật nhân bản của L.Phoiơbắc. Nhưng, chủ nghĩa duy vật nhân bản của L.Phoiơbắc lại là chủ nghĩa duy vật siêu hình, nghĩa là nó vẫn tách khỏi phương pháp biện chứng.
    • Trong triết học của C.Mác, chủ nghĩa duy vật gắn kết, thống nhất hữu cơ với phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa duy vật được C.Mác làm giàu bằng phương pháp biện chứng, còn phương pháp biện chứng được ông đặt trên nền chủ nghĩa duy vật. Đồng thời, cả chủ nghĩa duy vật lẫn phương pháp biện chứng đều được C.Mác phát triển lên một trình độ mới về chất.
    • Do vậy, sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng trong triết học Mác hơn hẳn về chất so với sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại. Vì vậy, đây chính là bước phát triển cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.

    Thứ hai, Sáng tạo ra duy vật lịch sử là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học, là một trong những điểm quan trọng nhất đánh dấu thực chất cách mạng và khoa học của triết học Mác.

    • Chủ nghĩa duy vật trước C.Mác đã đóng một vai trò to lớn đối với sự phát triển của xã hội, của khoa học và triết học. Tuy nhiên, đó là chủ nghĩa duy vật không triệt để. Nghĩa là nó chỉ duy vật trong giải thích thế giới tự nhiên, nhưng còn duy tâm trong giải thích xã hội, lịch sử, tinh thần. Do vậy, chủ nghĩa duy vật trước C.Mác đã không đánh đổ được chủ nghĩa duy tâm một cách hoàn toàn. Chủ nghĩa duy tâm vẫn còn nơi ẩn trú của nó là lĩnh vực xã hội, lịch sử, tinh thần. Chủ nghĩa duy vật của C.Mác đã giải thích một cách duy vật, khoa học không chỉ thế giới tự nhiên, mà cả lĩnh vực xã hội, lịch sử, tinh thần. Do vậy, chủ nghĩa duy vật của C.Mác là chủ nghĩa duy vật triệt để nhất, hoàn bị nhất. Không phải ngẫu nhiên mà V.I.Lênin đã khẳng định: “Triết học của Mác là một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị”(2). Rằng, “chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị”(3). Như vậy, với quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác đã kết thúc thời kỳ nghiên cứu xã hội, lịch sử một cách tùy tiện, lộn xộn, mở ra một thời kỳ mới trong nghiên cứu xã hội, lịch sử bằng việc chỉ ra quy luật hình thành, vận động và phát triển của xã hội, của lịch sử. Ph.Ăngghen đã so sánh phát minh này của C.Mác như phát minh của Đácuyn trong khoa học tự nhiên: “Giống như Đácuyn đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người”(4). Chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác “chỉ cho ta thấy rằng, do chỗ lực lượng sản xuất lớn lên, thì từ một hình thức tổ chức xã hội này, nảy ra và phát triển lên như thế nào một hình thức tổ chức đời sống xã hội khác, cao hơn; chẳng hạn, chủ nghĩa tư bản đã nảy sinh ra như thế nào từ chế độ phong kiến”(5). Về bản chất, chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác - quan niệm duy vật về lịch sử - cũng là chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhưng thể hiện được tính đặc thù của lĩnh vực lịch sử – lĩnh vực hoạt động của con người. Chính chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng đã trở thành cơ sở thế giới quan và phương pháp luận cho C.Mác nghiên cứu kinh tế, phát hiện ra học thuyết giá trị thặng dư, hiểu được sự phát sinh, phát triển, diệt vong tất yếu của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Do vậy, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện vĩ đại nhất của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.

    Thứ ba  Sự xuất hiện của triết học Mác đã làm thay đổi của triết học cũng như vị trí của nó trong hệ thống tri thức khoa học . Triết học Mác không còn là khoa học của các khoa học nữa mà nó cũng chỉ là 1 khoa học mà thôi. Khoa học này đóng vai trò T.G.Quan, phương pháp luận Ăng ghen có nói rằng CNDV hiện đại không cần phải được chứng thực và biểu hiện thành một khoa học đặc biệt nào đó của các khoa học mà được chứng thực và biểu hiện trong các khoa học hiện thực.

    • Trước khi triết học Mác ra đời, triết học hoặc là hòa tan, ẩn giấu đằng sau các khoa học khác, hoặc đối lập với chúng. Chẳng hạn, ở phương Đông cổ đại, triết học thường ẩn giấu đằng sau các học thuyết về chính trị, tôn giáo, đạo đức,v.v.. Ở Hy Lạp cổ đại, triết học được coi là “khoa học của các khoa học”. Trong thời kỳ Trung cổ, triết học được coi là “bộ môn” của thần học, có nhiệm vụ chứng minh sự tồn tại của Thượng đế. Ở thời kỳ Cận đại, triết học được coi là mêthaphisica với nghĩa là nền tảng thế giới quan của con người, như quan niệm của R.Đêcáctơ; hoặc triết học được coi là tổng thể tri thức của con người trong quan niệm của Ph.Bêcơn, v.v.. Trong triết học cổ điển Đức, triết học lại được coi là “khoa học của các khoa học”.
    • Quan hệ giữa triết học Mác với các khoa học cụ thể là quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Các khoa học cụ thể cung cấp cho triết học Mác các tư liệu, dữ kiện, thông số khoa học để triết học Mác khái quát. Ngay sự ra đời của triết học Mác cũng không thể thiếu những tiền đề khoa học tự nhiên. Chính những thành tựu của khoa học tự nhiên nửa đầu thế kỷ XIX đã làm bộc lộ những hạn chế, sự bất lực của phương pháp siêu hình trong nhận thức thế giới; đồng thời cung cấp cơ sở khoa học cho sự ra đời của phương pháp biện chứng. Trong quan hệ với các khoa học cụ thể, triết học Mác đóng vai trò thế giới quan, phương pháp luận chung nhất. Thực tiễn phát triển mạnh mẽ của các khoa học cụ thể càng làm tăng vai trò thế giới quan, phương pháp luận của triết học Mác. Đúng như một nhà khoa học tự nhiên ở thế kỷ XX đã nhận xét: “Các khái quát hóa triết học cần dựa trên các kết quả khoa học. Tuy nhiên, một khi đã xuất hiện và được truyền bá rộng rãi, chúng thường rất ảnh hưởng đến sự phát triển tiếp tục của tư tưởng khoa học, khi chúng chỉ ra một trong rất nhiều phương hướng phát triển có thể có”(10). Như vậy, sự ra đời của triết học Mác đã chấm dứt mâu thuẫn giữa triết học với các khoa học cụ thể.

    Thứ tư, với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con người. Trên cơ sở đó, triết học của ông đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ.

    • Trước khi triết học Mác ra đời, các nhà triết học thường tập trung chủ yếu vào giải thích thế giới, mà ít chú ý tới cải tạo thế giới. Đúng như C.Mác đã từng nhận định: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”(6). Cũng đã có một số nhà triết học muốn cải tạo thế giới nhưng lại bằng con đường không tưởng - dựa vào các lực lượng siêu nhiên, bằng “khai sáng”, mở mang dân trí, bằng con đường giáo dục đạo đức,v.v.. Có thể nói, không một nhà triết học nào trước C.Mác hiểu được thực tiễn và vai trò của nó đối với cải tạo thế giới.
    • Các nhà triết học Khai sáng Pháp muốn thay thế các quan hệ xã hội phong kiến lạc hậu, lỗi thời bằng các quan hệ xã hội tiến bộ hơn cũng không hiểu được rằng, phải thông qua hoạt động thực tiễn của đông đảo quần chúng mới thực hiện được điều này. Ngay cả L.Phoiơbắc - đại biểu lớn nhất của chủ nghĩa duy vật trước C.Mác - “cũng chỉ coi hoạt động lý luận là hoạt động đích thực của con người, còn thực tiễn thì chỉ được ông xem xét và xác định trong hình thức biểu hiện Do Thái bẩn thỉu của nó mà thôi”(7).
    • Không phải ngẫu nhiên mà sau này, C.Mác đã nhận định: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay – kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc – là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn”(8).
    • Trung tâm chú ý của triết học Mác không chỉ là giải thích thế giới, mà quan trọng hơn là cải tạo thế giới. Khác với các nhà triết học trước đó, C.Mác đã chỉ ra rằng, chỉ có thể cải tạo được thế giới thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận thức nói riêng, vào triết học nói chung, C.Mác đã làm cho triết học của ông hơn hẳn về chất so với toàn bộ triết học trước đó. Trong triết học Mác, không có sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con người, trước hết là hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản. Hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản được soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, định hướng bởi chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngược lại, hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản lại là cơ sở, động lực cho sự phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Giữa triết học Mác với hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản có sự thống nhất hữu cơ với nhau.
    • Đúng như C.Mác đã khẳng định: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”(9). Do vậy, triết học Mác đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của giai cấp vô sản và của toàn thể nhân loại tiến bộ.

    Thứ 5: Triết học Mác là thế giới quan của khoa học của GCCN và chính Đảng CM của nó, Mác từng viết rằng “ Giống như triết học tìm thấy giai cấp vô sản là vũ khí V.Chất của mình, GCVS cũng tìm thấy triết họclà vũ khí tinh thần của mình.

    • Cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng to lớn đối với thời đại. Chính cuộc cách mạng này đã làm cho chủ nghĩa xã hội không tưởng có cơ sở để trở thành khoa học. Cuộc cách mạng này cũng làm cho triết học thay đổi cả về vai trò, chức năng và nhiệm vụ. Triết học Mác đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ.
    • Sự ra đời của triết học Mác gắn bó chặt chẽ với thực tiễn phong trào công nhân những năm 30 - 40 của thế kỷ XIX. Bản thân triết học Mác cũng gắn bó hữu cơ với thực tiễn cách mạng của quần chúng nhân dân. Chính C.Mác, trong quá trình sáng tạo triết học, đã khắc phục sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con người. Bởi vậy, bổ sung, hoàn thiện, phát triển triết học Mác - Lênin phải theo hướng gắn bó với thực tiễn, bảo đảm sự thống nhất giữa triết học với thực tiễn. Thực tiễn luôn vận động, biến đổi và phát triển, do vậy, nhận thức của con người cũng luôn cần được bổ sung, hoàn thiện và phát triển cho phù hợp với thực tiễn đó. Triết học Mác - Lênin cũng không nằm ngoài quy luật này. V.I. Lênin và Hồ Chí Minh là những tấm gương sáng về việc bổ sung, hoàn thiện và phát triển triết học Mác - Lênin trong những điều kiện mới của thực tiễn. Sự thống nhất giữa triết học Mác - Lênin với thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải tìm lời giải đáp cho những vấn đề của ngày hôm nay từ chính thực tiễn ngày hôm nay chứ không thể chỉ tìm trong lịch sử. Tuy nhiên, trong quá trình bổ sung, hoàn thiện và phát triển triết học Mác - Lênin cần tránh hai thái cực sai lầm: hoặc là không thấy được những đổi thay của thực tiễn, bảo thủ không muốn bổ sung, hoàn thiện và phát triển những nguyên lý của triết học Mác - Lênin; hoặc là quá nhấn mạnh, tuyệt đối hóa sự đổi thay của thực tiễn dẫn đến đòi xét lại triết học Mác - Lênin.

    Thứ 6. Triết học Mác thống nhất giữa tính CM với tính KH. Tính CM trong triết học Mác được qui định trước hết bởi phép BCDV vì đối với triết học biện chứng không có cái gì là tối hậu, tuyệt đối, thiêng liêng. Nghĩa là xem xét các sự vật, hiện tượng trong quá trình sự vật hiện tượng biến đổi không ngừng.

    • Với tinh thần của chủ nghĩa duy vật biện chứng, triết học Mác là một hệ thống mở chứ không phải là hệ thống khép kín; nó đòi hỏi luôn phải được bổ sung, hoàn thiện, phát triển. Đối với phương pháp biện chứng duy vật, không có gì là bất biến. Bản thân C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin không bao giờ tự coi lý luận của các ông là “bất khả xâm phạm”, là khép kín, là chân lý tuyệt đích cuối cùng. Trái lại, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác luôn đòi hỏi những người cộng sản phải biết vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của triết học Mác sao cho phù hợp với điều kiện thực tiễn và phải biết bổ sung, hoàn thiện, phát triển chúng. Trên tinh thần ấy mà lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là “phải học tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin; học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”(11); “học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Đồng thời, Người cũng yêu cầu lý luận phải thường xuyên được “bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động”(13). Do vậy, chúng ta phải xuất phát từ điều kiện thực tiễn mới, trên cơ sở lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta để thường xuyên bổ sung, hoàn thiện, phát triển triết học Mác - Lênin. Tinh thần duy vật biện chứng đòi hỏi chúng ta phải xuất phát từ điều kiện thực tiễn khách quan để bổ sung, hoàn thiện, phát triển triết học Mác - Lênin, nhưng phải biết tổng kết thực tiễn một cách khách quan, biện chứng, có chắt lọc, có lý luận. Đồng thời, phải tránh siêu hình, rơi vào chủ nghĩa duy vật tầm thường, thô thiển, chỉ biết căn cứ từ thực tiễn vụn vặt, cục bộ để bổ sung, hoàn thiện, phát triển triết học Mác - Lênin.
    • Không chỉ thế, còn phải luôn bảo đảm sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng, tránh mắc phải sai lầm của các nhà triết học trước Mác. Trên tinh thần duy vật biện chứng, để bổ sung, hoàn thiện, phát triển triết học Mác - Lênin có hiệu quả, cần tiếp tục tinh thần duy vật triệt để. Nghĩa là phải giải quyết tốt những vấn đề của xã hội, của lịch sử trên tinh thần duy vật và biện chứng.

    Thứ 7. Tính KH của Triết học Mác được qui định trước hết ở chỗ Triết học Mác dựa trên những thành tựu đặc biệt KHTN là một trong những tiền đề xuất hiện Triết học Mác. Triết học Mác không phải là kết quả của thứ tư duy riêng biệt, không phải sản phẩm thuần túy của tư duy đó là kết quả phát triển lâu dài của triết học, của KHTN.

    • Ngay từ khi mới ra đời, triết học Mác đã gắn bó hữu cơ với các khoa học cụ thể. Do vậy, ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, triết học Mác - Lênin không thể không được bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận của mình. Ph.Ăngghen đã từng nhấn mạnh: “Mỗi lần có một phát minh mang ý nghĩa thời đại ngay cả trong lĩnh vực khoa học lịch sử - tự nhiên thì chủ nghĩa duy vật lại không tránh khỏi thay đổi hình thức của nó; và từ khi bản thân lịch sử cũng được giải thích theo quan điểm duy vật chủ nghĩa thì ở đây, cũng mở ra một con đường phát triển mới”(14). Rõ ràng, mỗi khi khoa học tự nhiên có những phát minh vạch thời đại thì chủ nghĩa duy vật không thể không thay đổi hình thức để phát triển. Đương nhiên, nếu không đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật thì trước những phát minh mới của khoa học, người ta dễ mất phương hướng, dễ mắc phải sai lầm trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. Ph.Ăngghen đã từng phê phán một số nhà khoa học tự nhiên khi cho rằng, họ không cần tới tư duy lý luận.
    • Theo Ph.Ăngghen, những nhà khoa học tự nhiên ấy, trên thực tế, lệ thuộc rất nhiều vào tư duy lý luận, nhưng thường lại là tư duy sai lầm được rút ra từ những học thuyết triết học “tồi tệ nhất”. Trong Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen viết: “Những nhà khoa học tự nhiên tưởng rằng họ thoát khỏi triết học bằng cách không để ý đến nó hoặc phỉ báng nó. Nhưng vì không có tư duy thì họ không thể tiến lên được một bước nào và muốn tư duy thì họ cần có những phạm trù lôgíc, mà những phạm trù ấy thì họ lấy một cách không phê phán, hoặc lấy trong cái ý thức chung, thông thường của những người gọi là có học thức, cái ý thức bị thống trị bởi những tàn tích của những hệ thống triết học đã lỗi thời, hoặc lấy trong những mảnh vụn của các giáo trình triết học bắt buộc trong các trường đại học (đó không chỉ là những quan điểm rời rạc, mà còn là một mớ hổ lốn những ý kiến của những người thuộc các trường phái hết sức khác nhau và thường là những trường phái tồi tệ nhất), hoặc lấy trong những tác phẩm triết học đủ các loại mà họ đọc một cách không có hệ thống và không phê phán - cho nên dù sao, rút cục lại, họ vẫn bị lệ thuộc vào triết học… Những ai phỉ báng triết học nhiều nhất lại chính là những kẻ nô lệ của những tàn tích thông tục hoá, tồi tệ nhất của những học thuyết triết học tồi tệ nhất”(15). Do vậy, Ph.Ăngghen cho rằng, “dù các nhà khoa học tự nhiên có làm gì đi nữa thì họ vẫn bị triết học chi phối. Vấn đề chỉ ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi một thứ triết học tồi tệ hợp mốt, hay họ muốn được hướng dẫn bởi một hình thức tư duy lý luận dựa trên sự hiểu biết về lịch sử tư tưởng và những thành tựu của nó”(16). Và, không phải ngẫu nhiên mà trong Lời tựa viết cho ba lần xuất bản tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen đã viết: “Chỉ có khi nào khoa học tự nhiên tiếp thu được những kết quả của hai nghìn năm trăm năm phát triển của triết học thì nó mới có thể, một mặt, thoát khỏi mọi thứ triết học tự nhiên đứng tách riêng, đứng ngoài và đứng trên nó, và mặt khác, thoát khỏi cái phương pháp tư duy hạn chế của chính nó, do chủ nghĩa kinh nghiệm Anh để lại”(17). Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chỉ cần nắm được triết học Mác - Lênin thì con người sẽ giải quyết được mọi vấn đề cụ thể do thực tiễn đặt ra. Triết học Mác - Lênin không phải bảo bối chứa sẵn mọi cách giải quyết những vấn đề do cuộc sống cũng như nhận thức đặt ra. Để tìm được lời giải đáp cho những vấn đề nảy sinh, bên cạnh những tri thức triết học Mác - Lênin, còn phải cần đến những tri thức của các khoa học cụ thể, kinh nghiệm sống và hoạt động thực tiễn của mỗi người. Thiếu những điều đó, chúng ta không thể hiểu và vận dụng đúng những nguyên lý của triết học Mác - Lênin. Do vậy, trong việc bổ sung, hoàn thiện và phát triển triết học Mác - Lênin, cần phải chống cả hai thái cực sai lầm: hoặc coi thường triết học Mác - Lênin, tuyệt đối hóa các khoa học cụ thể; hoặc chỉ thấy có triết học Mác - Lênin, không thấy vai trò của các khoa học cụ thể. Đồng thời, cũng cần phải nhận thức đúng rằng, bản thân triết học Mác - Lênin cũng cần được đổi mới, bổ sung, hoàn thiện và phát triển.

    Như vậy, có thể khẳng định lại rằng, hơn một thế kỷ rưỡi đã trôi qua, kể từ khi cuộc cách mạng trong triết học được C.Mác thực hiện, ý nghĩa của cuộc cách mạng này vẫn giữ nguyên tính thời sự và tính thực tiễn cho việc phát triển triết học Mác - Lênin trong thời đại hiện nay.__

    ADSENSE

 

 

CÂU HỎI KHÁC

AANETWORK
 

 

YOMEDIA
AANETWORK
OFF