YOMEDIA

Cảm nhận vẻ đẹp tình người giữa các nhân vật trong truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân

Tải về
 
NONE

HỌC247 mời các em cùng tham khảo tư liệu Cảm nhận vẻ đẹp tình người giữa các nhân vật trong truyện ngắn  "Vợ nhặt" của Kim Lân để thấy được sự yêu thương đùm bọc, lá lành đùm lá rách. Trước thực tại đau khổ và chết chóc họ không thôi nhìn về tương lai với một niềm tin đổi đời. Hi vọng với những tư liệu dưới đây sẽ giúp các em nắm được các luận điểm, luận cứ rõ ràng, rành mạch. Chúc các em học tốt!

ADSENSE

A. SƠ ĐỒ TÓM TẮT GỢI Ý

B. DÀN BÀI CHI TIẾT

1. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

- Giới thiệu vấn đề cần phân tích.

2. Thân bài:

* Bối cảnh truyện ngắn:

- Diễn ra vào giữa nạn đói năm 1944-1945, khiến hơn hai triệu đồng bào ta ở miền Bắc phải chịu cảnh chết đói.

- Ở xóm ngụ cư:

+ Cảnh người dân từ khắp nơi bồng bế, dìu dắt, thất thểu đi trên đường làng, ai nấy đều "xanh xám như bóng ma", người đói "ngổn ngang khắp lều chợ".

+ "người chết như ngả rạ", "không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người". Bao trùm lên toàn bộ không gian ấy là tiếng quạ kêu thảm thiết từng hồi, như một loại kèn quái dị đưa ma những kẻ xấu số, chết không có chỗ chôn.

* Nhân vật Tràng:

- Là một người dân ngụ cư, xấu xí, và nghèo đói, tính tình vô tư không lo nghĩ, chính vì thế Tràng không có nổi một tấm vợ. Ngày ngày anh làm nghề kéo xe bò thuê để kiếm miếng ăn.

- Tuy nhiên cuộc đời khốn khó và bế tắc của Tràng bỗng có một bước ngoặt lơn khi anh "nhặt" được một cô vợ giữa buổi đói kém. Một cô vợ theo không anh chỉ sau hai lần gặp gỡ và bốn bát bánh đúc.

- Ban đầu anh cũng không có cái gọi là tình yêu trai gái gì với thị, chỉ đơn giản rằng anh đồng cảm, thương xót cho người đàn bà khốn khổ đã đói đến mức vật vờ, sắp chết nên đãi thị bốn bát bánh đúc => Lòng lương thiện, là tình người khi sống với nhau ở trên đời của Tràng.

- Khi đã thành vợ, thành chồng, Tràng cảm thấy mình có nghĩa vụ phải săn sóc và quan tâm đến cái người đàn bà đang đi bên cạnh mình. Tràng bỗng lột xác trở thành một người đàn ông tinh tế:

+ Thấy vợ rách nát tàn tạ quá, lại không có đồ đạc gì ngoài cái nón rách, anh dẫn thị vào chợ huyện mua lấy một cái thúng con và vài đồ lặt vặt.

+ Mua hai hào dầu về thắp đèn, cho cửa sáng sủa để đón thị về làm dâu.

=> Tràng bỗng nhiên trưởng thành hơn trong nhận thức, thứ tình cảm với thị không chỉ còn nằm ở lòng thương hại, mà giờ đây đã trở thành tình thân, tình yêu, thứ tình cảm ấy khiến con người ta trưởng thành, nhân hậu và tinh tế hơn hẳn.

- "trong một lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt". Tình yêu, hạnh phúc lứa đôi đã xóa mờ đi tất cả những khó khăn chất chồng, sự đe dọa của đói kém, mở ra trong lòng nhân vật những cảm xúc, những hy vọng mới mẻ, niềm tin mãnh liệt về một cuộc sống khấm khá hơn.

- Sau đêm tân hôn, Tràng đã nhận thức được trách nhiệm của bản thân với cuộc sống, với gia đình

=> Biểu hiện rõ nét nhất về niềm hy vọng vào một cuộc sống tương lai tốt đẹp đang đón chờ của nhân vật.

- Hình ảnh "đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới" chính là giải pháp, là niềm tin, niềm hy vọng mới của Tràng, mở ra cho anh một con đường sáng, đưa cả gia đình thoát khỏi cảnh bế tắc và tối tăm.

* Nhân vật thị:

- Không tên tuổi, quê quán, dân ngụ cư, cong cớn sưng sỉa vì miếng ăn, cuối cùng theo không anh Tràng cũng vì miếng ăn.

- Khao khát được sống, cầu được sống, thị trân trọng mạng sống của mình, thế nên thị buộc phải cong cớn, sưng sỉa để được ăn và cuối cùng là về làm vợ Tràng.

- Khi nhìn thấy cái căn chòi rách nát của Tràng thị đã không khỏi thất vọng, thở dài, thế nhưng thị chọn im lặng, quyết tâm cùng chồng vun vén, tạo dựng hạnh phúc cho ra đình.

=> Thị vẫn còn nhớ cái ân nghĩa của người chồng cho thị 4 bát bánh đúc, cứu thị khỏi chết đói, và thị cảm động bởi cái sự săn sóc của Tràng.

- Thị càng trân quý hơn cái tình cảm của bà mẹ chồng dành cho mình, bà đã không chê thị là loại con dâu theo không, trái lại còn bảo ban, săn sóc.

- Sau đêm tân hôn, thị đã dậy sớm, ra sức vun vén, thu dọn nhà cửa, đem quần áo rách ra phơi, gánh đầy hai ang nước, quét sân, trang hoàng nhà cửa, lột xác trở thành một người phụ nữ đảm đang tháo vát, biết chăm lo => Sự trân quý thứ tình thân vừa mới có được và thị muốn hết lòng vì nó.

- Trước món "chè khoán", đắng ngắt và khó khăn, thị đã giấu đi nỗi thất vọng và buồn tủi của mình cốt để bà cụ khỏi buồn, và không phá vỡ đi cái không khí gia đình đang đầm ấm, yên vui này.

- Niềm hy vọng vào cuộc sống rất mãnh liệt, thị đã nhắc đến chuyện người ta đi phá kho thóc của nhật, và lòng thị cũng dần rộn lên những suy nghĩ về việc đi cướp thóc, cải thiện cuộc sống.

* Bà cụ Tứ:

- Nghèo khó cả đời buôn ba khốn khổ nuôi con khôn lớn, khi con lớn rồi thì bà lại cứ mãi day dứt về chuyện không thể cưới nổi vợ cho con.

- Xót xa cho cái phận mình, phận con lấy vợ ngay giữa nạn đói, không cỗ bàn, cưới hỏi, giữa cái không khí thê thảm, tiêu điều của làng xóm, lo lắng một nỗi rằng không biết rồi đôi vợ chồng có thể dìu dắt nhau qua được cái nạn đói khủng khiếp này không. = > Tấm lòng thương con sâu sắc.

- Nhanh chóng lạc quan và thông suốt bà thương con và thương cả người đàn bà đã theo con mình, phải vào bước đường cùng thì người ta mới chịu lấy con mình, vì thế bà lại càng thêm quý trọng mối nhân duyên này.

- Xuất phát từ tấm lòng của người mẹ bao dung, nhân hậu bà liên tục cho các con những lời dặn dò, động viên tinh thần để các con chăm lo làm ăn, ổn định cuộc sống, cùng xây dựng hạnh phúc gia đình.

- Bà cụ đã xua đi cái không khí u ám, buồn rầu của nạn đói bằng cách liên tục kể các câu chuyện vui, gieo vào lòng con trai con dâu những niềm tin, niềm hy vọng vào tương lai tươi sáng với các kế hoạch làm ăn, nuôi gà,... vạch ra một chặng đường tương lai đầy hứa hẹn khiến không khí gia đình trở nên sôi nổi, hạnh phúc.

- Hình ảnh nồi chè khoán là tấm lòng của người mẹ, đang cố xua đi những cái đói, cái u ám của sự tử vong dần lan trên xóm ngụ cư.

3. Kết bài: Nêu ý nghĩa của truyện ngắn và giá trị thực tiễn.

C. BÀI VĂN MẪU

Đề bài: Cảm nhận vẻ đẹp tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống ở các nhân vật trong truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân.

Gợi ý làm bài

Số lượng tác phẩm ít, nhưng sáng tác nào của Kim Lân cũng đều chứa đựng những giá trị cốt lõi quý giá, lấy nền tảng hiện thực làm nổi bật lên những giá trị nhân văn sâu rộng, ảnh hưởng lớn đến tâm hồn của người đọc. Chính vì lẽ ấy, thế nên Kim Lân một tác giả không học hành nhiều, nhưng có óc sáng tạo phong phú, đi sâu vào đời sống của nhân dân, đồng thời thấu hiểu nội tâm và vẻ đẹp tâm hồn của họ đã vinh dự được xếp vào là một trong 10 tác giả tiêu biểu nhất cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Cùng viết về chủ đề người nông dân khốn khổ trước cách mạng tháng 8, thế nhưng khác hẳn với Nam Cao hay Thạch Lam, luôn mang đến cho độc giả những cái chết xa hoặc gần, những cái tăm tối, bế tắc không hồi kết, thì ở Vợ nhặt, Kim Lân đã khéo léo mang lại ánh sáng cho người đọc giữa một khung cảnh ngột ngạt của nạn đói năm 1945. Ánh sáng đó xuất phát từ vẻ đẹp của tình người ấm áp và niềm hy vọng sống còn vẫn tiềm ẩn trong mỗi một nhân vật Tràng, Thị, và bà cụ Tứ, dẫu rằng phận đời của họ cũng mấp mé cảnh chết đói.

Bối cảnh câu chuyện diễn ra vào giữa nạn đói năm 1944-1945, khiến hơn hai triệu đồng bào ta ở miền Bắc phải chịu cảnh chết đói, đó là cái nạn đói khủng khiếp mà nhà văn Nam Cao đã không khỏi ám ảnh nhắc lại rằng "có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe để rùng mình". Ở xóm ngụ cư, nơi diễn ra câu chuyện, giữa nạn đói ấy Kim Lân đã gợi lại một viễn cảnh thê thảm, tiêu điều của một giai đoạn đau thương nhất lịch sử dân tộc bằng những câu văn nhẹ nhàng ẩn chứa nhiều nỗi niềm đau xót. Cảnh người dân từ khắp nơi bồng bế, dìu dắt, thất thểu đi trên đường làng, ai nấy đều "xanh xám như bóng ma", người đói "ngổn ngang khắp lều chợ", thần chết có lẽ đã triển khai ngay một cuộc tàn sát khi mà "người chết như ngả rạ", "không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người". Những người còn sống có lẽ cũng đã xác định trước cái chết của mình, họ lầm lũi bước chầm chậm về phía nghĩa địa, kẻ "dật dờ lặng lẽ đi lại như bóng ma". Bao trùm lên toàn bộ không gian ấy là tiếng quạ kêu thảm thiết từng hồi, như một loại kèn quái dị đưa ma những kẻ xấu số, chết không có chỗ chôn. Bởi lẽ lúc ban đầu người ta còn có sức chôn, sau vì đói, vì người chết nhiều quá nên người ta mặc kệ. Thậm chí, cái đói nó còn hóa thú cả con người, những kẻ sống sót từ nạn đói ấy có lẽ cũng có vài người nghe đến tên món thịt người cứu đói. Chao ôi, cái sự sống khốn khổ trong văn của Kim Lân nó thật thấm thía và nhiều ám ảnh.

Tuy nhiên Kim Lân, không cốt để phản ánh hiện thực chết chóc, đau thương hay lên án cái xã hội đày đọa bất công này, mà ông tập trung nhiều hơn về con người và vẻ đẹp tiềm ẩn trong họ. Từ nạn đói, bước ra 3 nhân vật rất tiêu biểu ấy là Tràng, Thị và bà cụ Tứ, những con người cũng bị cái đói hành hạ đến thê thảm. Trước hết nói về nhân vật Tràng, là một người dân ngụ cư, xấu xí, và nghèo đói, tính tình vô tư không lo nghĩ, chính vì thế Tràng không có nổi một tấm vợ. Anh cùng người mẹ già của mình nương tựa nhau trong một cái chòi rách phía rìa làng, ngày ngày anh làm nghề kéo xe bò thuê để kiếm miếng ăn, nhưng ngày càng đói kém và công việc của anh cũng trở nên bấp bênh, bữa được bữa mất. Tuy nhiên cuộc đời khốn khó và bế tắc của Tràng bỗng có một bước ngoặt lơn khi anh "nhặt" được một cô vợ giữa buổi đói kém. Một cô vợ theo không anh chỉ sau hai lần gặp gỡ và bốn bát bánh đúc. Từ một câu nói bông đùa "Muốn ăn cơm trắng mấy giò, lại đây mà đẩy xe bò cùng anh" khởi đầu nhân duyên và một lời cầu hôn cũng nửa thật nửa đùa hợp với tính vô tư của Tràng "Này có theo tớ về thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về", người đàn bà cong cớn, sưng sỉa, tàn tạ ấy đã sẵn sàng theo không Tràng, không cần mối lái, cưới xin, lễ hỏi gì sất, hai người đã thành vợ chồng dễ dàng như thế. Có thể nói rằng chưa có lúc nào mà con người ta lại xuống giá đến mức ngang bằng cọng rơm cọng rác có thể nhặt bất cứ đâu ở ngoài đường như thế, khốn khổ cho một kiếp người bị cái ăn, cái đói ép uổng. Tràng không ngờ rằng mình lại có được vợ bằng cái cách ấy, ban đầu anh cũng không có cái gọi là tình yêu trai gái gì với thị, chỉ đơn giản rằng anh đồng cảm, thương xót cho người đàn bà khốn khổ đã đói đến mức vật vờ, sắp chết nên đãi thị bốn bát bánh đúc. Đó là cái lòng lương thiện, là tình người khi sống với nhau ở trên đời của Tràng, người ta đâu thể hứa suông rồi không làm, người ta cũng đâu thể chứng kiến một mảnh đời tàn tạ, tội nghiệp sắp lìa đời, trong khi bản thân có thể giúp đỡ họ bằng 4 bát bánh đúc. Nhưng khi đã thành vợ, thành chồng, dường như trong lòng Tràng có cái gì đó nảy nở, Tràng cảm thấy mình có nghĩa vụ phải săn sóc và quan tâm đến cái người đàn bà đang đi bên cạnh mình. Tràng bỗng lột xác từ anh chàng khù khờ, cục mịch trở thành một người đàn ông tinh tế, thấy vợ rách nát tàn tạ quá, lại không có đồ đạc gì ngoài cái nón rách, anh dẫn thị vào chợ tỉnh mua lấy một cái thúng con và vài đồ lặt vặt. Thương thị không có được một đám cưới đàng hoàng, Tràng lại dẫn vợ đi ăn mừng cưới một bữa no nê, thậm chí phá lệ mua hai hào dầu về thắp đèn, cho cửa sáng sủa để đón thị về làm dâu mới cho có không khí. Tràng bỗng nhiên trưởng thành, thứ tình cảm với thị không chỉ còn nằm ở lòng thương hại, mà giờ đây đã trở thành tình thân, tình yêu, thứ tình cảm ấy khiến con người ta trưởng thành, nhân hậu và tinh tế hơn hẳn. Một niềm hy vọng sống và mưu cầu hạnh phúc mãnh liệt đã thắp lên trong tâm hồn Tràng "trong một lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt". Tình yêu, hạnh phúc lứa đôi đã xóa mờ đi tất cả những khó khăn chất chồng, sự đe dọa của đói kém, mở ra trong lòng nhân vật những cảm xúc, những hy vọng mới mẻ, niềm tin mãnh liệt về một cuộc sống khấm khá hơn. Sau đêm tân hôn, trước "cảnh tượng thật đơn giản bình thường, nhưng đối với hắn thật thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng", Tràng cảm nhận được rõ "một nguồn vui sướng đột ngột tràn ngập trong lòng". Tràng đã nhận thức được trách nhiệm của bản thân với cuộc sống, với gia đình "Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người. Hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này" và biến nó thành hành động "hắn chạy xăm xăm ra giữa sân. Hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa căn nhà". Việc ý thức được phải lo lắng cho gia đình sau này, hay hành động tu sửa căn nhà rách nát chính là biểu hiện rõ nét nhất về niềm hy vọng vào một cuộc sống tương lai tốt đẹp đang đón chờ của nhân vật. Trách nhiệm và ý thức về cuộc sống hiện tại, đã mở ra trong lòng Tràng khao khát đổi đời, thay đổi cái sự sống khốn khó này bằng một cách nào đó. Hình ảnh "đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới" chính là giải pháp, là niềm tin, niềm hy vọng mới của Tràng, mở ra cho anh một con đường sáng, đưa cả gia đình thoát khỏi cảnh bế tắc và tối tăm này.

-----Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp-----

 

AANETWORK
 

 

YOMEDIA
AANETWORK
OFF