Với tư liệu Phân tích giá trị nghệ thuật trong việc tạo tình huống truyện trong tác phẩm "Vợ nhặt" mà HỌC247 giới thiệu dưới đây sẽ là tư liệu cực kì hữu ích với các bạn học sinh lớp 12 nắm được các luận điểm, luận cứ rõ ràng, rành mạch từ đó biết cách viết bài văn cho riêng mình. Đồng thời, dàn bài chi tiết và bài văn mẫu này sẽ giúp các em định hướng được cách giải quyết dạng bài nghị luận cụ thể. Mời các em cùng tham khảo!
A. SƠ ĐỒ TÓM TẮT GỢI Ý
B. DÀN BÀI CHI TIẾT
1. Mở bài:
- Truyện ngắn Vợ nhặt là một sáng tác thành công của Kim Lân và của văn xuôi sau kháng chiến chống Pháp. Sự thành công của truyện là ở chỗ: để phản ánh số phận bi thảm của người nông dân trong năm đói 1945 và khát vọng sống mạnh mẽ cùng những phẩm chất tốt đẹp, Kim Lân đã lựa chọn được một tình huống độc đáo: tình huống nhặt vợ.
- Câu chuyện nhặt vợ của anh Tràng dưới ngòi bút miêu tả của Kim Lân đã làm toả sáng vẻ đẹp rất người ở những con người đói khổ, đồng thời cũng khiến ý đồ tư tưởng của nhà văn được thể hiện trọn vẹn. Có được thành công ấy là nhờ ở tài năng nghệ thuật của Kim Lân trong triển khai tình huống.
2. Thân bài:
* Mục đích của Kim Lân khi viết Vợ nhặt. Viết về nạn đói song ý đồ của nhà văn không phải là phản ánh thảm cảnh đói khát cùng tất cả vỏ cơ cực nhếch nhác của con người do nạn đói gây ra. Với Kim Lân “Đói, nó vừa cay đắng, vừa đớn đau, đồng thời một mặt nào đó nó lại lóe lên những tia sáng về đạo đức, danh dự (Nhà văn nói về tác phẩm). Truyện Vợ nhặt khai thác các khía cạnh sau cùng của bi kịch ấy.
* Tình huống được lựa chọn: Khi nạn đói hoành hành, cái đói, cái chết đang bao bọc, bủa vây xung quanh cuộc Sống của con người, lẽ ra phải lo kiếm miếng ăn để bảo toàn sự sống thì Tràng - một thanh niên nghèo của xóm ngụ cư - lại nhặt về một người vợ. Tràng đã có vợ, có gia đình riêng của anh đúng vào thời điểm mà đáng ra, khát khao hạnh phúc chưa nên có vì nó khó có thể tồn tại được. Quả thực, tình huống nhặt vợ của Tràng là một tình huống tâm lí - nó có ý nghĩa như một phép thử để đo phẩm chất người trong con người. Lựa chọn tình huống này, Kim Lân phải rất bạo tay đồng thời phải có đủ sự tinh tế cũng như khả năng thấu hiểu nhân thế để có thể xử lí, triển khai theo đúng ý đồ, dự định ban đầu.
* Những đặc sắc nghệ thuật của Kim Lân khi triển khai tình huống
Đặc biệt chú ý khai thác các quan hệ trong bức tranh đời sống
- Tương quan đối lập giữa bối cảnh đói khát, đầy ám ảnh chết chóc với khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của con người:
+ Nhà văn đã miêu tả khá tỉ mỉ bối cảnh của nạn đói, đặc biệt là không gian năm đói với các phương diện âm thanh, mùi vị, hình ảnh, không khí để tạo một cảm giác gai lạnh, ghê rợn, trước cái chết đang sừng sững ngự trị khắp mọi ngóc ngách của đời sống. Trên cái nền ấy, sự tồn tại của con người trở nên hết sức chông chênh: có người đã chết vì đói, có người còn sống song cũng vật vờ như những bóng ma. Lúc này, sự sống trở nên yếu thế khi bị cái chết dồn đuổi. Người ta dễ dàng tin rằng nếu cứ như thế, sự sống sẽ dần chìm nghỉm trong không gian đặc quánh mùi vị chết chóc. Trong không khí ấy, cần có một sự kiện thật lạ lùng, thật đặc biệt để làm khuấy động và đảo lộn cái xu thế đang chìm dần kia: đó chính là sự kiến anh Tràng đưa vợ về. Kim Lân đã cho thấy, đúng là sự kiện lạ lùng ấy đã làm cho xóm ngụ cư xôn xao lên được một lúc, và hơn cả sự xôn xao là cái dư vị mà nó tạo ra “một cái gì lạ lùng và tươi mát đang thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ”.
+ Sự đối lập không chỉ ở bên ngoài mà còn tồn tại ngay trong lòng nhân vật. Ngòi bút miêu tả tâm lí của Kim Lân đã lách sâu vào thế giới nội tâm nhân vật để khám phá và miêu tả các trạng thái tâm lí đối lập nhau ở mỗi con người: ở anh Tràng là nỗi lo lắng “thóc gạo này đến cái thân mình còn chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng” và cái tặc lưỡi đầy liều lĩnh của một người đàn ông chưa bao giờ có cái hạnh phúc được sống trong một gia đình đầy đủ “chậc, kệ”, ở bà cụ Tứ là nỗi buồn tủi xót xa vì thân phận nghèo hèn, cảnh sống đói khổ không hạnh phúc, không biết đến tương lai và niềm vui con trai có vợ...
+ Từ các tương quan đối lập đó, nhà văn đã dồn bút lực vào việc miêu tả tâm lí nhân vật với những biểu hiện vô cùng phong phú để đi đến khẳng định: cái đói, cái chết với những ám ảnh khủng khiếp mà nó gây ra không thắng nổi khát khao hạnh phúc ở những con người biết sống có tình người. Anh Tràng cũng lo cho bản thân song cũng rất biết trân trọng người vợ mới (mua / hào dầu). Bà cụ Tứ cả đời nghèo khổ cơ cực song lại rất thương con và vô cùng nhân hậu trong cách xử sự. Với những biểu hiện tâm hồn, tính cách như thế của nhân vật, sự chiến thắng của sự sống với cái chết trở nên hợp lí vì gợi nhiều xúc động.
- Tương quan tương đồng trong hưởng vận động của tâm lí nhân vật: Trước khi Tràng đưa vợ về, cả xóm ngụ cư cũng như mỗi cá nhân đều như chìm nghỉm trong nạn đói: đám trẻ ủ rũ, anh Tràng “lảm nhảm than thở”, mệt mỏi nặng nề. Khi Tràng đưa vợ về, cả xóm ngụ cư như bừng lên một nguồn sinh khí mới. Tất cả dường như thay đổi hẳn, thậm chí như thể cái đói đã bị đẩy lùi để nhường chỗ cho sự sống, cho niềm vui: dân xóm ngụ cư bàn tán xôn xao, trẻ con xúm lại trêu Tràng, Tràng thì phớn phở khác thường và đặc biệt nghiêm túc, chín chắn hẳn lên, người đàn bà trở nên hiền hậu đúng mực, dù không hẳn là vui vẻ song cảnh gia đình ấm áp đã khiến thị trở thành một nàng dâu thực sự, bà cụ Tứ sau những lo âu, buồn tủi đã trở nên vui vẻ và nhanh nhẹn hẳn lên. Tuy rằng cái đói, cái chết vẫn bao bọc xung quanh, thậm chí hiện hình trong bữa ăn ngày đói song sự sống và niềm vui đã trở lại trong cuộc sống của mọi người.
- Như vậy là, khi xây dựng tình huống truyện, nhà văn ít khai thác các quan hệ đời sống bên ngoài mà chủ yếu đi vào đặc tả những biến chuyển tâm lí. Vì vậy, truyện tuy có gợi ra cảnh sống bi thảm của con người năm đói song ấn tượng sâu đậm mà nó tạo ra lại là ý nghĩa thiêng liêng của sự sống, của tình người.
Tổ chức điểm nhìn trần thuật
Nhằm tránh sự đơn điệu, tẻ nhạt và cũng là để tạo chiều sâu tâm lí cho tình huống truyện, Kim Lân đã rất khéo léo khi tổ chức điểm nhìn trần thuật: người trần thuật khi thì đứng ngoài để quan sát, kể và tả một cách khách quan, có lúc hoá thân vào nhân vật để hồi tưởng, trải nghiệm. Truyện trở nên đậm đặc chất trữ tình và giàu khả năng gợi cảm nhất khi nhà văn nhập giọng kể vào giọng nói bên trong của nhân vật biến việc kể chuyện thành việc tự biểu hiện bằng ý nghĩ của nhân vật (đoạn văn miêu tả tâm trạng bà cụ Tứ) nên đã lột tả được một cách sâu sắc, tinh tế các trạng thái tâm lý, những phản ứng tâm lý của nhân vật trước sự kiện.
Ngôn ngữ truyện
- Ngôn ngữ người kể chuyện: Khi thì tự nhiên, hóm hỉnh, hài hước (đoạn miêu tả cảnh làm quen, cảnh đính ước và nên vợ nên chồng của Tràng và người đàn bà), khi thì trang nghiêm, chân thực (đoạn miêu tả tâm trạng bà cụ Tứ) và nhìn chung là giản dị mà vẫn rất gợi cảm, có những đoạn văn chan chứa chất thơ (đoạn miêu tả cảm giác của Tràng, đoạn miêu tả tâm trạng bà cụ Tứ).
- Ngôn ngữ nhân vật: Đáng lưu ý nhất là ngôn ngữ đối thoại: ngắn gọn, giản dị, có lúc hơi thô mộc và phù hợp với tính cách nhân vật, phù hợp với mục đích lời nói của nhân vật, đó là thứ ngôn ngữ làm quen, làm thân, thăm dò, vừa xa lạ, vừa gần gũi.
Phát hiện chi tiết: Tác giả sử dụng nhiều chi tiết rất gợi cảm để tạo không khí cho truyện (tiếng hờ khóc, thấy người chết, mùi xác chết). Đặc biệt có những chi tiết có sức phát hiện và khả năng biểu hiện rất lớn (Tràng mua 2 hào dầu và khoe với vợ, Tràng đánh diêm đốt đèn, bữa ăn ngày đói...) Những chi tiết tạo ra tính cụ thể sinh động của tình huống, làm bật phẩm chất người trong con người.
Mạch truyện: Xoay quanh và bám rất sát sự kiện nhặt vợ của Tràng song không đơn điệu một chiều, nhà văn cố ý đảo trình tự kể để vừa dẫn dắt, vừa giải thích, vừa nhận xét để khai thác mọi khía cạnh của sự kiện.
3. Kết bài:
- Bút lực và sự linh hoạt, sáng tạo của Kim Lân đã giúp ông tạo ra trong truyện ngắn Vợ nhặt một tình huống bất ngờ đầy kịch tính: Vừa lạ lùng, vừa éo le, vừa cảm động. Tình huống ấy được triển khai một cách khéo léo và sâu sắc đã biểu đạt được những nội dung phong phú của tác phẩm.
- Cần khẳng định: Tình huống được xây dựng trong truyện ngắn Vợ nhặt không chỉ là nghệ thuật mà còn là sức phát hiện và tấm lòng đồng cảm sâu sắc của Kim Lân với số phận và cảnh ngộ của con người.
C. BÀI VĂN MẪU
Đề bài: Phân tích giá trị nghệ thuật trong việc tạo tình huống truyện trong tác phẩm "Vợ nhặt".
Gợi ý làm bài
“Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm độc đáo của Kim Lân khi viết về cuộc sống và con người ở nông thôn. Khi viết về truyện ngắn, có ý kiến cho rằng: “Một trong những sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Kim Lân trong truyện ngắn “Vợ nhặt” là đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn”. Có thể nói, đây chính là yếu tố tạo nên thành công của tác phẩm.
Là cây bút truyện ngắn vững vàng, Kim Lân viết về người nông dân và cuộc sống ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của người vốn là “con đẻ” của đồng ruộng. Những ông Hai, bà cụ Tứ, anh cu Tràng... hiện lên trong tác phẩm hồn hậu chân thực, chất phác và chiếm được nhiều thiện cảm trong lòng người đọc. Sáng tác ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công và sau này được viết lại vào khoản sau hòa bình lập lại (1954) truyện ngắn có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, là câu chuyện kể về cuộc sống của những người không có “hộ khẩu” chính thức trên mảnh đất mà mình sinh sống. Trên cái nền lịch sử của nạn đói năm 1945, Kim Lân đã đặt nhân vật của mình vào trong một tình huống độc đáo vừa buồn vừa vui, có hạnh phúc nhưng cũng đầy rẫy những lo toan.
Nghệ thuật xây dựng tình huống là việc đặt nhân vật vào trong những ngữ cảnh nhất định, làm môi trường cho nhân vật hoạt động qua đó bộc lộ phẩm chất, cá tính. Trong tác phẩm, Kim Lân đã sáng tạo ra một tình huống đặc biệt. Đó là tình huống anh nông dân nghèo tên Tràng, xấu trai, đang có nguy cơ ế vợ bỗng nhiên lại có vợ, mà lại là nhặt được vợ, là theo không chỉ nhờ một câu hát vu vơ và bốn bát bánh đúc. Tình huống ấy kéo theo hàng loạt các tình huống khác không kém phần lí thú.
Tình huống này gây nên sự ngạc nhiên cao độ trong xóm ngụ cư, cho mẹ Tràng và ngay cả bản thân anh cu Tràng nữa bởi hai lý do: Ai có thể ngờ rằng một người nghèo túng, xấu trai, thậm chí có vẻ hơi ngờ nghệch lại là dân ngụ cư như Tràng, xưa nay con gái không ai thèm để ý, vả lại cũng không có tiền cưới vợ mà .nay bỗng dưng lấy được vợ, mà là theo khống hẳn hoi. Hơn nữa, trong một bối cảnh như thời điểm ấy, khi cái đói đang hoành hoành, khắp nơi đều vạ vật những người “xanh xám như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ (...) Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người” thì một người như Tràng đến nuôi thân còn chẳng lo nổi lại còn mẹ già, nói chi đến chuyện đèo bòng. Bằng ấy cái vô lý và không thể nhưng sự kiện chấn động ấy vẫn cứ diễn ra. Khi Tràng dẫn người đàn bà lạ về nhà, cả xóm ngụ cư đều ngơ ngác không hiểu. Chưa thể nào tin được đó là vợ Tràng họ bắt đầu phỏng đoán:
Ai đấy nhỉ?... Hay là người nhà dưới quê bà cụ Tứ mới lên?
- Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ có thấy họ mạc nào lên thăm đâu.
- Quái nhỉ?
Im một lúc, có người bỗng lại cười lên rung rúc.
- Hay là vợ anh cu Tràng? ừ khéo mà vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chị ta thèn thẹn hay đáo để”.
Hạnh phúc của đồng loại tạm làm người ta quên đi cái đói khổ trong giây lát. “Hình như họ hiểu được đôi phần. Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tối tăm ấy của họ”. Nhưng rồi ngay sau đó lại là nỗi lo lắng. “Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”.
Từ đây, Kim Lân kéo người đọc về với tình huống trước đó như một lời lý giải cho việc nhặt được vợ của Tràng, một tình huống cũng thú vị không kém. Tràng nhặt được vợ chỉ nhờ vào câu hát vu vơ khi đẩy xe bò cho đỡ mệt nhọc:
“Muốn ăn cơm trắng với giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”
Cái đói khổ làm cho người ta mất hết cả sự xấu hổ và lòng tự trọng. Người đàn bà đã chớp lấy câu nói của Tràng như cái phao cứu sinh cho cuộc đời mình. Lần thứ hai gặp lại thì “xưng xỉa”: “Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt”, rồi không ngần ngại ngồi xuống làm một chập hết bốn bát bánh đúc. Thế là nên vợ nên chồng.
Có thể nói đây là một tình huống hết sức oái oăm, không biết nên vui hay nên buồn, không biết nên mừng hay nên lo? Thứ tâm trạng đan xen ấy hiện lên trong suy nghĩ đầy mâu thuẫn của những người trong cuộc. Tràng “mới đầu cũng chợn nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”. Nhưng rồi hắn cũng tặc lưỡi. Cảm giác ấy cùng với những tình cảm mới lạ đan xen khiến Tràng giống như một đứa trẻ. Khác với Tràng, bà cụ Tứ là một người từng trải, nhìn thấy con trai về cùng với người đàn bà lạ mặt “lòng người mẹ nghèo khổ ấy hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Bà hiểu cả tình cảnh bất hạnh của người đàn bà, cũng như tình cảnh khó khăn sắp tới của cả gia đình. Nỗi lo lắng cùng với niềm hy vọng đan xen, “May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo hết được?”. Bản thân người đàn bà, sau những phút giây chao chát chỏng lỏn để có được miếng ăn, theo không người ta về nhà, chắc chắn giờ đây cũng suy nghĩ mông lung nhiều lắm. Thị trở về với dáng vẻ ngượng ngùng, bẽn lẽn, e thẹn “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”.
Đặt nhân vật vào trong tình huống đặc biệt, éo le như vậy, Kim Lân đã làm nổi bật những ý nghĩa sâu sắc của truyện. Không cần đến những lời kết tội to tát câu chuyện thông qua tình huống nụ cười và giọt nước mắt đan xen ấy mà lên án gay gắt bọn phát xít thực dân phong kiến và tay sai đã gây ra nạn đói năm 1945, đẩy con người đến cái chết, dẫn đến những tình huống éo le, cùng cực, làm cho giá trị con người bị rẻ rúng: người ta có thể nhặt được vợ chỉ với bốn bát bánh đúc.
-----Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp-----