Những nét chính về sự ra đời và quá trình phát triển từ “tự phát” đến “tự giác” của giai cấp công nhân Việt Nam. Vị trí của phong trào công nhân đối với sự ra đời của ĐCSVN đầu năm 1930? - Nguyễn Minh Minh
YOMEDIA
NONE

Những nét chính về sự ra đời và quá trình phát triển từ “tự phát” đến “tự giác” của giai cấp công nhân Việt Nam. Vị trí của phong trào công nhân đối với sự ra đời của ĐCSVN đầu năm 1930?

Theo dõi Vi phạm
ATNETWORK

Trả lời (1)

  • Các cuộc khai thác thuộc địa của Pháp từ sau khi đặt được ách thống trị trên đất nước ta đã làm xuất hiện thêm ba giai cấp mới: công nhân, tư sản và tiểu tư sản.

    Phong trào đấu tranh của công nhân đã nổ ra và nhanh chóng trở thành lực lượng chính trị độc lập, đưa giai cấp công nhân sớm trở thành giai cấp nắm quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

    1/Sự ra đời của giai cấp công nhân Việt Nam.

    Sau khi bình định và đặt xong ách thống trị trên đất nước ta, thực dân Pháp đã tiến hành các cuộc khai thác thuộc địa ở Đông Dương để bóc lột, vơ vét tài nguyên và sức lao động của nhân dân ta.

    Từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Pháp đẩy mạnh khai thác thuộc địa lần 2 với quy mô lớn và tốc độ nhanh.

    Vốn đầu tư của Pháp vào nước ta từ 1924 – 1929, gấp 6 lần tứ 1898 - 1918, chủ yếu là để mở các đồn điền trồng cây công nghiệp, đẩy mạnh khai thác mỏ, chủ yếu là mỏ than và các ngành công thương nghiệp khác.

    Chính quyền phong kiến bị thu hẹp dần, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã ra đời ở Việt Nam.

    Xã hội Việt Nam đã biến thành xã hội thuộc địa và nửa phong kiến.

    Cơ cấu giai cấp xã hội đã có sự biến đổi mới. Một số giai cấp mới đã ra đời.

    Giai cấp vô sản công nghiệp ra đời từ cuối thế kỷ XIX trong quá trình khai thác thuộc địa lần I của Pháp và đã trưởng thành nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng trong những năm đầu thế kỷ XX.

    Đến trước chiến tranh thế giới thứ I, giai cấp công nhân Việt Nam có số lượng khoảng 10 vạn người, sống khá tập trung ở các khu Hòn Gai, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Sài Gòn, Chợ Lớn …

    Đến năm 1929, số lượng công nhân Việt Nam đã lên đến 22 vạn người.

    Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản Việt Nam. Nó xuất hiện khi có sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản Pháp.

    Tuy còn trẻ, số lượng chỉ khoảng 1% dân số, trình độ văn hóa kỹ thuật thấp nhưng giai cấp công nhân là đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất:

    Sống tập trung, nằm trong các yết hầu kinh tế của chủ nghĩa tư bản Pháp ở Việt Nam.

    Có ý thức tổ chức kỷ luật, có tinh thần triệt để cách mạng.

    Sinh trưởng trong một nước thuộc địa và nửa phong kiến, giai cấp công nhân bị ba tầng áp bức và bóc lột của đế quốc, phong kiến và tư sản bản xứ.

    Phần lớn từ nông dân mà ra nên có mối liên hệ gần gũi với nông dân, có truyền thống yêu nước bất khuất.

    Ra đời và bước lên vũ đài chính trị giữa lúc Cách mạng tháng Mười Nga đã giành thắng lợi nên sớm có điều kiện để tiếp thu chủ nghĩa Marx Lenin.

    Tính chất và đặc điểm trên đã làm giai cấp công nhân Việt Nam có sức mạnh chính trị và tinh thần to lớn, giúp nó giành được quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

    2/Sự phát triển của phong trào công nhân Việt Nam từ khi ra đời đến năm 1930.

    -Từ khi mới ra đời đến năm 1930, công nhân Việt Nam đã đấu tranh vì lợi ích dân tộc và giai cấp, đi từ đấu tranh lẻ tẻ dần dần phát triển rộng rãi, liên kết các ngành nghề khác nhau và ý thức chính trị ngày càng thể hiện rõ rệt.

    -Từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, ta thấy xuất hiện một số cuộc đấu tranh bỏ việc hoặc bãi công của công nhân:

    Công nhân làm đá ở On Lâu (Hải Hưng) bãi công (1900)

    Công nhân xe lửa Yên Bái bỏ việc (1905).

    Công nhân Nam Kỳ bỏ việc (1907).

    Nữ công nhân viên hãng Delbaux (Nam Định) bãi công (1/5/1909).

    Công nhân viên chức hãng LUCI ở Hà Nội bãi công (5/1909).

    Công nhân lò nung xi măng Hải Phòng, công nhân và học sinh học nghề xưởng Ba Son (Sài Gòn) bãi công (1912).

    Công nhân mỏ thiếc Tĩnh Cúc (Cao Bằng) bỏ việc tập thể (1914).

    Bãi công của công nhân mỏ than Đèo Nai (1914)…

    Từ sau chiến tranh, do việc đẩy mạnh cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai nên số lượng công nhân tăng nhanh, phong trào công nhân cũng đã nổ ra nhiều hơn trước.

    Từ 1919 – 1925 có khoảng 25 cuộc đấu tranh của công nhân:

    Bãi công của thủy thủ tàu Sharnhort đậu ở Hải Phòng (8/1919).

    Bãi công của 600 thợ nhuộm ở Chợ Lớn (1922).

    Công nhân xưởng tơ Nam Định, nhà máy xay Nam Định, nhà máy rượu Hải Dương, phân xưởng bông nhà máy dệt Nam Định bãi công (1924).

    Tháng 8/1925, công nhân Ba Son bãi công, có Tôn Đức Thắng và Công hội Đỏ lãnh đạo, đòi tăng lương 20%, được công nhân nhiều nơi ở Sài Gòn ủng hộ. Cuộc bãi công đó đã biểu hiện mầm móng của ý thức chính trị tự giác của giai cấp công nhân (ngăn cản tàu Michelet của Pháp sang đàn áp cách mạng Trung Quốc), tính tổ chức đã bắt đầu xuất hiện.

    Tuy nhiên, các cuộc đấu tranh của công nhân thời kì này còn ở mức độ thấp và còn phụ thuộc vào phong trào yêu nước nói chung.

    -Nhìn chung, phong trào công nhân giai đoạn 1919 – 1925 tuy đã phát triển nhưng còn trong thời kì mang tính “tự phát”, chưa tỏ rõ được là một lực lượng chính trị độc lập, chưa có ý thức rõ rệt về sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình.

    -Cuộc bãi công của công nhân xưởng Ba Son tháng 8/1925 đã thể hiện một bước trưởng thành quan trọng của công nhân Việt Nam, đã tỏ rõ ý thức về sức mạnh giai cấp của mình và tinh thần quốc tế vô sản của nó, giai cấp công nhân nước ta từ đây bước đầu đi vào đấu tranh tự giác.

    -Bằng thiên tài trí tuệ và hoạt động cách mạng của mình, được Cách mạng Tháng Mười soi sáng, Nguyễn Ai Quốc đã đi vào con đường cách mạng vô sản, đứng về phía Quốc tế Cộng sản, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp và tìm cách truyền bá chủ nghĩa Marx Lenin vào Việt Nam.

    -Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) và lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (6/1925) đào tạo cán bộ đưa về nước tuyên truyền chủ nghĩa Marx Lenin, xây dựng cơ sở của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên trong công nhân, nông dân, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh theo chủ nghĩa Marx Lenin.

    -Từ 1926 – 1930, phong trào công nhân tiếp tục phát triển và ngày càng rộng lớn, có tổ chức, có lãnh đạo hơn:

    Năm 1926 có các cuộc bãi công của công nhân nhà máy sợi Nam Định, đồn điền cao su Cam Tiên, hãng Ba Son….

    Năm 1927 có gần chục cuộc bãi công lôi cuốn hàng trăm công nhân tham gia.

    Năm 1928 – 1929 có hàng chục cuộc bãi công với hàng ngàn người tham gia, trong đó tiêu biểu là bãi công của công nhân nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy sợi Nam Định, xe lửa Trường Thi (Vinh), Avia Hà Nội , Phú Riềng (Biên Hòa).

    Năm 1929 đến đầu năm 1930 có gần 40 cuộc đấu tranh của công nhân.

    Đặc điểm của phong trào công nhân thời kì 1927 – 1929 là sự biến chuyển về vật chất, biểu hiện ở các cuộc bãi công nổ ra liên tục, rộng khắp với số lượng người tham gia đông, có phối hợp giữa các địa phương, đơn vị đấu tranh, có lãnh đạo chặt chẽ của tổ chức Công hội hay Thanh niên.

    -Phong trào đấu tranh của công nhân bao gồm nhiều ngành khác nhau.

    -Khẩu hiệu đấu tranh có tính chất chính trị rõ rệt.

    -Các tổ chức công hội đã được thành lập ở nhiều xí nghiệp hầm mỏ…

    -Cơ sở tổ chức Việt Nam Cách mạng Thanh niên Hội càng được mở rộng. Số hội viên của Hội năm 1929 có đến 1700 người.

    -Số lượng và quy mô các cuộc đấu tranh của công nhân ngày càng lớn.

    -Ý thức giác ngộ giai cấp của công nhân ngày càng cao.

    -Giai cấp công nhân dần dần trở thành một lực lượng chính trị độc lập, có tác dụng lôi cuốn, quy tụ và dẫn đầu phong trào yêu nước.

    -Tình hình đó chứng tỏ chủ nghĩa Marx Lenin đã thật sự thâm nhập vào phong trào công nhân, phong trào yêu nước.

    -Do đo, yêu cầu thành lập chính đảng của giai cấp công nhân đã đặt ra gay gắt, đưa đến sự ra đời của các tổ chức cộng sản:

    Tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phân liệt.

    Tháng 3/ 1929, Chi bộ Cộng sản đầu tiên xuất hiện ở Hà Nội.

    6/1929, Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời ở Hà Nội.

    Tiếp đến An Nam Cộng sản Đảng cũng ra đời vào 8/1929.

    Tổ chức Tân Việt phân liệt, phái tả cũng đứng ra sáng lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn vào tháng 9/1929.

    Tuy nhiên, sự hoạt động riêng rẽ của các tổ chức cộng sản đã gây ra những trở ngại cho sự phát triển của phong trào.

    -Yêu cầu của phong trào cách mạng và công nhân nước ta đòi hỏi phải có một Đảng Cộng sản thống nhất.

    -Tháng 1/1930, Nguyễn Ái Quốc hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam.

    -Đó là đội tiên phong cao nhất và có tổ chức nhất của giai cấp công nhân.

    -Sự kiện đó chứng tỏ giai cấp công nhân đã trưởng thành, đã trở thành giai cấp tự giác, đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

    3/Vị trí

    -Giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp tiên tiến nhất trong xã hội Việt Nam, ra đời trong quá trình khai thác thuộc địa của đế quốc Pháp, đã nhanh chóng phát triển về số lượng và chất lượng, sớm nắm được quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

    -Từ phong trào đấu tranh của công nhân, các tổ chức chính trị của giai cấp vô sản đã xuất hiện và đòi hỏi sự ra đời của một chính đảng vô sản.

    -Phong trào công nhân là cơ sở để tiếp thu chủ nghĩa Marx Lenin, lí luận giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc, là một nhân tố hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam.

      bởi bich thu 21/01/2021
    Like (0) Báo cáo sai phạm

Nếu bạn hỏi, bạn chỉ thu về một câu trả lời.
Nhưng khi bạn suy nghĩ trả lời, bạn sẽ thu về gấp bội!

Lưu ý: Các trường hợp cố tình spam câu trả lời hoặc bị báo xấu trên 5 lần sẽ bị khóa tài khoản

Gửi câu trả lời Hủy
 
NONE

Các câu hỏi mới

AANETWORK
 

 

YOMEDIA
ATNETWORK
ON