YOMEDIA
NONE

Nhận xét về bút pháp miêu tả của thơ Quang Dũng

Nhận xét về bút pháp miêu tả của thơ quang dũng

Theo dõi Vi phạm
ADSENSE

Trả lời (7)

  • Quang Dũng sáng tác không nhiều, nhưng thơ ông để lại ấn tượng sâu sắc với những rung cảm sâu lắng trong tâm hồn người đọc. Thơ Quang Dũng hiện lên một “cái tôi” hào hoa, thanh lịch giàu chất lãng mạn, với khả năng cảm nhận một cách tinh tế vẻ đẹp của thiên nhiên và tình người, đồng thời lại rất mực hồn nhiên, bình dị, chân thật. Bài thơ Tây Tiến tiêu biểu cho hồn thơ ấy. Không lẩn tránh đề cập đến cái bi nhưng cảm hứng lãng mạn đã đem đến cho cái bi màu sắc và âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Tinh thần bi tráng, cảm hứng lãng mạn đã được triển khai trên nền cảm xúc kí ức - Nhớ Tây Tiến.

    Tây Tiến là tên một binh đoàn có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt - Lào, tiêu hao sinh lực địch. Phần đông lính Tây Tiến là những chàng trai Hà thành. Họ mang vào chiến trường không chỉ có tình yêu Tổ quốc, khát vọng độc lập mà còn có những nét hào hoa thanh lịch cùa người Tràng An. Cuộc sống gian khổ, thiếu thốn không ngăn được lính Tây Tiến vui vẻ, sôi nổi, yêu đời và mộng mơ.

    Năm 1947, Quang Dũng gia nhập binh đoàn Tây Tiến, ông từng là đại đội trưởng một đại đội thuộc binh đoàn này. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Nỗi nhớ Tây Tiến đau đáu, da diết đã khiến nhà thơ viết nên một bài thơ tuyệt tác.

    Tây Tiến gợi lên một cuộc hành quân về phía Tây Tổ quốc, một cuộc hành quân đầy gian lao vất vả giữa vùng rừng núi đầy hiểm trở, hung vĩ đầy vẻ hoang dại và huyền bí.

    Vốn sẵn tố chất hào hoa của người trai đất Hà thành , chất hào hoa lại được gặp thiên nhiên và con người miền Tây với vẻ đẹp huyền hoặc, Quang Dũng lại từng sống và chứng kiến những tháng ngày hào hung giữa binh đoàn Tây Tiến, hồn thơ ấy đã hòa quyện lại tất cả để tạo nên những thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn.

    Cảm hứng lãng mạn của bài thơ trước hết là nỗi nhớ ngập tràn: tác giả nhớ rừng núi hoang vu, hiểm trở, dữ dội, nhớ những cảnh đẹp huyền ảo nên thơ, đặc biệt là nhớ bước quân hành của đoàn quân Tây Tiến, nhớ gương mặt, ánh mắt, nhớ cả những hi sinh gian khổ, những giây phút đồng đội nằm xuống nơi biên cương. Tất cả cứ theo dòng hồi ức mà hiện lên cùng với trí tưởng tượng phóng khoáng, bay bổng.

    Để giúp cho trí tướng tượng bay cao, bay xa và tình cảm, cảm xúc được diễn tả một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất, nhà thơ đã vận dựng thủ pháp nghệ thuật tô đậm cái phi thường, gây ấn tượng mạnh về cái hùng vĩ, dữ dội cũng như cái tuyệt mĩ, thơ mộng. Một trong những thủ pháp nghệ thuật được sử dụng đắc địa nhất là thủ pháp đối lập. Đối lập giữa cái hùng vĩ, dữ dội với cái tuyệt mĩ, thơ mộng, đối lập giữa gian khổ, vất vả với anh hùng, bất khuất, đối lập giữa cái bi và cái hùng...

    Trong Tây Tiến, thiên nhiên sừng sững trở thành một hình tượng lớn. Hồn thơ lãng mạn cứa Quang Dũng đã tô đậm, tuyệt đối hóa cái sừng sững, hùng vĩ của thiên nhiên để qua đó thấy được ý chí dấn thân của người lính Tây Tiến.

    Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm

    Heo hút cồn mây, súng ngủi trời

    Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

    Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

    Bốn câu thơ trên được coi là tuyệt bút trong việc khắc họa cái hùng vĩ, hiểm trở cùa thiên nhiên. “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm”. Nhịp điệu tiếp nối liên tục của những thanh trắc kết hợp với cùng một lúc hai từ láy tượng hình (khúc khuỷu, thăm thẳm) dường như đã đẩy chiều cao của dốc núi lênn vời vợi với hình thế cheo leo, gập ghềnh. Cách ngắt nhịp câu thơ (Dốc lên khúc khuỷu / dốc thăm thẳm) như muốn diễn tả nỗi vất vả, cực nhọc cùng với lưng áo đẫm mồ hôi của người lính Tây Tiến.

    Chưa đủ, ngòi bút Quang Dũng vẫn tiếp tục đẩy chiều cao của dốc núi lên lên tuyệt đối: Heo hút cồn mây súng ngửi trời. Núi cao tưởng chừng như chạm mây, mây chất thành đống, thành cồn, “heo hút cồn mây”, người lính như đứng trên mây, giữa bốn bề mây đến nỗi “súng ngửi trời”. Chữ “ngửi” được dùng rất bạo. “Súng ngửi trời” là cách đo chiều cao của người lính - vừa chính xác, vừa rất “tếu”. Hiệu quả của bút pháp lãng mạ không chỉ dựng lên một thiên nhiên hiểm trở mà còn dựng lên kích thước, tư thế của người lính, một tư thế, kích thước sánh ngang tầm thiên nhiên.

    Hai câu trước có sự phối hợp tuyệt vời của những thanh trắc. Dòng thơ tiếp theo như gãy đôi để vẽ ra hai chiều của dốc núi: một vút lên, một đổ xuống gần như thẳng đứng: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Cảnh được dựng bằng thủ pháp đối lập để khắc họa cái dữ dội, hùng vĩ của núi rừng. Những dốc núi cao tới chóng mặt, bên dưới là vực sâu thăm thẳm. Người lính như treo mình giữa vách đá, trên một sườn núi giữa chặng đường hành quân.

    Ba câu trên thanh trắc chiếm ưu thế, câu thứ tư hoàn toàn thanh bằng:

    Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

    Đây cũng là một cách đối lập tạo ra sự tương phản giữa hai chặng đường hành quân: Vượt núi vất vả - dừng chân thoải mái. Câu thơ toàn thanh bằng với 6/7 tiếng là phù bình thanh cùng với hình ảnh những ngôi nhà ấm áp thấp thoáng ẩn hiện trong sương mù, mưa núi đã diễn tả trọn vẹn cái cảm giác thở phào nhẹ nhõm, thoải mái. Đúng là một dòng thơ bỗng “bay ngang lưng trời”.

    Bút pháp lãng mạn vẫn được sử dụng để tô đậm vẻ hoang dại, dữ dội, đầy huyền bí, sự ghê gớm của rừng thiêng.

    Chiều chiều oai linh thác gầm thét

    Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

    Hai chi tiết tiêu biêu (thác gầm thét, cọp trêu người) gắn với hai thời điểm tiêu biểu (chiều chiều, đêm đêm), không phải một chiều, một đêm mà thời gian lặp lại mang tính liên tục, không gian như bị vây bọc bởi những âm thanh man dại. Câu thơ tạo nên ấn tượng mạnh mẽ trong trí tưởng tượng của người đọc.

    Cảm xúc lãng mạn được xây dựng trên nền cảm xúc kí ức. Đoạn thơ được viết ra như một dòng kí ức đứt, nối, mờ tỏ liên tục. Cho nên đan cài với những câu thơ tả cảnh dữ dội, hùng vĩ là những câu thơ mênh mang, chơi vơi. Hai câu cuối đoạn là một sự đầm ấm bất ngờ đến ngây ngất bởi tiếng gọi thiết tha vang lên tự đáy lòng (Nhớ ôi Tây Tiến), bởi hình ảnh gợi sự thanh thản, đầm ấm đến nao lòng (cơm lên khỏi, thơm nếp xôi). Hai câu thơ còn có giá trị chuyển cảnh, chuyển đoạn.

    Nếu ở đoạn trên, bút pháp lãng mạn đã tô đậm vẻ hoang dại, hùng vĩ của thiên nhiên thì ở đoạn tiếp theo, cảm hứng lãng mạn lại gây ấn tượng mạnh về cái thơ mộng, tuyệt mĩ của núi rừng và con người Tây Bắc.

    Đêm liên hoan văn nghệ có “ đuốc” có “hoa”, có tiếng khèn, điệu múa và nhất là có hình ảnh những thiếu nữ miền Tây Bắc trong trang phục dân tộc óng ánh sắc màu, hoa văn núi rừng. E ấp trong những điệu xòe duyên dáng. Tất cả như say, như mơ, như mê đế “hồn thơ” được “xây" lên từ đó.

    Cảnh sông nước bộc lộ hồn thơ nhạy cảm, tinh tế và tài hoa của Quang Dũng. Làn sương chiều mỏng, dáng lau đơn sơ, phơ phất, dáng người trên độc mộc, dòng nước, hoa đong đưa tình tứ... Nhà thơ không tả mà chỉ gợi bằng những câu thơ thiên về cảm tính trực giác. Cái nhạt nhòa hư ảo càng được tăng lên bởi những từ ngữ gợi nhớ một nỗi nhớ mênh mang (chiều sương ấy, có thấy, có nhớ, người đi, hồn lau, bến bờ, dòng nước, đong dưa...). Tất cả cứ lung linh, khó nắm bắt. Chỉ có thể cam nhận bằng tâm hồn - một tâm hồn chứa tận cùng sâu thẳm là tình yêu và nỗí nhớ.

    Mỗi đoạn thơ có một giá trị riêng. Song đặt hai đoạn thơ cạnh nhau, bút pháp lãng mạn càng được nổi bật bởi sự tương phản đôi lập. Nếu ở đoạn 1cảnh được vẽ bằng những nét bút gân guốc, táo bạo, khỏe khoắn thì ở đoạn 2 cảnh lại được vẽ bởi những nét bút mềm mại, tinh tế. Hai nét vẽ đó dựng lên hoàn chỉnh bức tranh thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, bí hiểm vừa thơ mộng, mĩ lệ. Đó chính là chất tài hoa trong ngòi bút Quang Trung.

    Bút pháp lãng mạn tiếp tục được nhà thơ khai thác triệt để khi xây dựng chân dung người lính Tây Tiến. Thật ra không phải đến đây hình ảnh người lính mới hiện lên mà ở hai phần trên, hình ảnh người lính cứ thấp thoáng ẩn hiện:  tư thế trèo đèo, lội suối, ở những phút dừng chân giữa chặng đường hành quân, ở “đêm hội đuốc hoa” và “Châu Mộc chiều sương ấy”... thậm chí có lúc hiện lên rât rõ:

    Anh bạn dãi dầu không bước nữa

    Gục lên súng mũ bỏ quên đời

    Tuy nhiên, phải đến đoạn thơ thứ ba, hình ảnh người lính Tây Tiến mới hiện lên đầy đủ. Hai câu mở đoạn: “Tây Tiến đoàn bình không mọc tóc / Quân xanh màu lá dữ oai hùm” đã gây ra nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho “không mọc tóc” là do người lính cạo trọc đầu (người ta gọi là những anh “vệ trọc”) còn “xanh màu lá” là xanh màu lá ngụy trang. Đó là những người lính dũng cảm, can trường. Có người khác lại cho “không mọc tóc” là do sốt rét rụng hết tóc, còn “xanh màu lá” là màu da xanh như lá (do sốt rét). Tác giả muốn tô đậm những gian khổ, đói rét, ốm đau của người lính...

    Nhà thơ Trần Lê Văn, một chiến sĩ Tây Tiến đã từng nói: “Đánh trận tử vong ít, sốt rét tử vong nhiều”. Chính Quang Dũng cũng có lần tâm sự: “Chúng tôi hành quân bằng đôi chân thực sự đã nếm mùi Tây Tiến. Chúng tôi mở rừng, ăn rừng, ngủ rừng”. Thiếu thốn, đói rét, ốm đau là một thực tế. Nhà thơ nói đến tất cả những điều đó nhưng ý thơ lại được nâng đỡ bởi bút pháp lãng mạn. Quang Dũng đã khắc họá chân dung người lính hết sức lẫm liệt, oai hùng. Tác giả dùng hai chữ “đoàn binh” mà không dùng “đoàn quân”. Cái “dữ oai hùm” khiến ta nhớ đến câu thơ hừng hực “hào khí Đông A” của Phạm Ngũ Lão: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”.

    Nhà thơ không miêu tả một gương mặt riêng biệt mà dồn tất cả sự đối lập tạo nên một gương mặt chung khiến ta vừa cảm động, vừa cảm phục, vừa xót thương vừa tự hào. Hình ảnh thơ tuy có thiên về nét vẽ hình thể nhưng lại giúp người đọc thấy rõ hơn khí phách hào hùng của những chiến sĩ Tây Tiến - những anh “vệ trọc” nổi tiếng một thời.

    Giữa hai câu trước và hai câu sau lại tạo nên một đối lập khác: đối lập với mắt trừng”, “oai hùm” là “mộng”, là “mơ”, đặc biệt là câu:

    Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

    Thật hào hùng mà cũng thật hào hoa. Chiến tranh tàn khốc rất cần đến - những nét dữ dằn nhưng không thể giết chết những giấc mơ, không thể cướp đi những mộng đẹp. Đó là vẻ đẹp và đó cũng là sức mạnh.

    Trước đây có người cho rằng người chiến sĩ Tây Tiến trong bài thơ chỉ có cái vẻ “yên hùng”, khí phách bên ngoài, còn bên trong yếu ớt, tiểu tư sản, mơ mộng viển vông. Nhưng người lính trong Đồng chí của Chính Hữu nhớ “giếng nước gốc đa”, nhớ “bạn thân cày”, nhớ “gian nhà không”... Người lính trong Nhớ của Hồng Nguyên nhớ đến cháy lòng người vợ trẻ “mòn chân bên cối gạo canh khuya”... thì người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng mơ về Hà Nội để nhớ một dáng hình con gái thì cũng là một điều dễ hiểu. Trong chiến tranh, nếu người lính không còn biết mơ, biết nhớ, không còn mảy may rung động trước một bông hoa đẹp hay sắc đẹp cùa một người con gái thì điều đó quả thật là vô cùng đáng sợ. Họ chiến đấu làm gì? Vì ai? Nếu không phải là để trả lại cho con người, cho dân tộc những giá trị nhân văn cao đẹp như vậy.

    Bài thơ còn dựng lên hai tinh thần đối lập mà thống nhất: bi và hùng, tạo thành chất lãng mạn bi tráng, một khúc độc tấu mang âm hưởng tráng ca.

    Tất cả những gian khổ thử thách, đói rét ốm đau mà nhà thơ đề cập đến trong suốt hai phần đầu bài thơ như một sự chuẩn bị tâm lí cho người đọc để đến khi tác giả nói về cái chết (phần 3) không gây nên cảm giác đột ngột. Tuy không đột ngột và mặc dù quá hiểu chiến tranh là thế - có thể ngã xuống bất cứ lúc nào, song đọc những câu thơ của Quang Dũng, chúng ta vẫn thấy một cảm giác chơi vơi khó gọi tên. Cũng chính những câu thơ ấy đã bất tử hóa cái chết, anh hùng hóa sự hi sinh để nâng đỡ cảm giác buồn đau, hẫng hụt, thành thử bi thương mà không bi lụy, bi ca chứ không phải khốc ca. Chính điều đó làm nên một khúc độc tấu bi tráng rền vang sông núi và lay động lòng người.

    Rải rác biên cương mồ viễn xứ

    Mỗi người lính ngã xuống, những nấm mộ mọc lên. Những nấm mộ rải rác khắp biên cương là dấu tích cùa biết bao nỗi buồn thầm lặng. Nhà thơ nhìn xuyên suốt con đường hành quân của Tây Tiến mà lặng đi đến tê người khi trước mắt anh hiện lên những nấm mộ đồng chí, đồng đội.

    Câu thơ sau nhanh chóng gạt đi những cảm giác bi thương giống như có một lực đẩy vô hình:

    Chiến trường đi chẳng tiếc dời xanh!

    Câu thơ vừa mang dáng dấp cuộc ra đi “nhất khứ hề” của Kinh Kha tráng sĩ vừa mang âm hướng của những cuộc ra đi trong thơ lãng mạn Việt Nam trước cách mạng với những “li khách” cùa Thâm Tâm, “khách chinh phu” của Thế Lữ.. Hơn nữa, các từ Hán - Việt: “biên cương”, “viễn xứ”, “chiến trường”, ... có sức âm vang tạo nên tính cổ điển của hình tượng. Tuy nhiên, chất làng mạn của câu thơ Quang Dũng là chất lãng mạn cách mạng, lãng mạn anh hùng. Quang Dũng đã nói được một điều cốt lõi trong nhân cách người lính: biết hi sinh vẫn dấn thân, ra đi chẳng tiếc đời mình, tuổi thanh xuân đẹp nhất hiến dâng cho lí tưởng. Họ ngã xuống thanh thản, nhẹ nhàng thậm chí nụ cười vẫn nở trên môi. Quang Dũng đã gạt nước mắt để ngẩng cao đầu với niềm tự hào kiêu hãnh.

    Hai câu tiếp theo cũng mang cảm hứng tương tự :

    Áo bào thay chiếu anh về đất

    Sông Mã gầm lên khúc độc hành

    Có người hiểu là lấy áo bào thay cho chiếu, có người lại hiểu là áo bào được thay bằng chiếu. Quang Dũng có lần tâm sự : ngay cả khi nằm xuống, người tử sĩ cũng không có đủ manh chiếu liệm. Nói “áo bào thay chiếu” là cách nói của người lính chúng tôi, cách nói ước lệ của thơ trước đây để an ủi những đồng chí của mình đã ngã xuống giữa rừng”. Thế là đã rõ. Không có chiến bào. Thậm chí không có cả chiếu liệm. Nhưng không thể để đau thương, buồn thảm quật ngã. Câu thơ độc đáo của Quang Dũng đã lãng mạn hóa cái chết, làm cho cái chết trở thành một sự ra đi nhẹ nhàng, thanh thản, ung dung với một vẻ đẹp hào hùng, oai phong và sang trọng. Giọng thơ như muốn hạ xuống cung bậc thấp nhất phù hợp với nỗi tiếc thương, nhưng hạ thấp để cuối cùng vút lên với cung bậc dữ dội và hùng tráng:

    Sông Mã gầm lên khúc độc hành

    Những mất mát, đau thương như dồn nén, tích tụ trong tiếng gầm vang rung chuyển cả núi rừng của dòng sông Mã. Những người lính Tây Tiến hi sinh là trở về với thiên nhiên, trở về với đất mẹ và các anh lại hóa thân vào thiên nhiên để hát mãi khúc quân hành.

    Tây Tiến có phảng phất nét buồn đau nhưng đó là nét buồn đau bi tráng. Nằm trong thi pháp chung của nền văn học 1945 - 1975, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lăng mạn, Tây Tiến đã để lại dấu ấn riêng độc đáo. Đó là sự phối hợp hài hòa giữa các mặt đối lập trong các hình tượng thơ. Tây Tiến còn là sự gửi gắm tất cả men say ước nguyện của Quang Dũng vào sự nghiệp cứu nước. Vì thế, Tây Tiến hấp dẫn người đọc bởi thế giới nghệ thuật của cái đẹp, cái cao cả hào hùng - sản phẩm của một bút pháp và cảm hứng lãng mạn.

      bởi Trịnh Linh 29/12/2018
    Like (0) Báo cáo sai phạm
  • YOMEDIA

    Video HD đặt và trả lời câu hỏi - Tích lũy điểm thưởng

  • Đọc hai tác phẩm chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, tác giả đã dùng cảm hứng hiện thực kết hợp với bút pháp hiện thực nhằm tô đậm cái bình thường, cái thường thấy, cái có thật… Mang đến cho người đọc hình ảnh người lính nông dân mộc mạc, giản dị, gắn bó tự nhiên trong tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng.

    Ngược lại, trong bài thơ Tây Tiến, nhà thơ Quang Dũng đã dùng cảm hứng lãng mạn với bút pháp lãng mạn nhằm tô đậm cái đặc biệt, cái phi thường, cái đẹp ở xứ lại phương xa…đã xây dựng nên hình ảnh người lính tiểu tư sản học sinh Hà Nội kiêu hùng hào hoa ở chiến trường Tây Tiến ác liệt.

    Ờ bài thơ “Tây Tiến”, tác giả muốn lôi cuốn người đọc theo những đợt sóng tào của tưởng tượng và cảm xúc. Hưng câu thơ trong bài đều giàu chất tạo hình, tạo nhạc thật khác thường. Qua ngòi bút lãng mạn người lình Tây Tiến hiện lên rất cam trường những cũng rất mực hòa hoa.

    “ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

    Heo hút cồn mây súng ngửi trời

    Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”

    Bằng ngòi bút sắc sảo Quang Dũng đã làm sống lại khung cảnh chiến trường ác liệt và dữ dội không chỉ ở độ cao, độ sâu mà còn ở sự vắng lặng hoang sơ, không chỉ có kẻ thù nơi biên giới mà còn có cả “mường hịch cọp trêu người.”

    Nhưng trên tất cả các anh vẫn chiến đấu và chiến thắng trước mọi khó khăn gian khổ. Những bước đi của anh thật đẹp thật kỳ vĩ như những bước đi của thánh gióng mẹ kể ngày xưa. Ngòi bút của Quang Dũng đã khéo léo tả cái “bi” nhưng lại nói lên được cái “tráng”  đẹp hơn lên tựa như lối “vẽ mây, nảy trăng” vậy.

    Ngược lại ở bài “Đồng chí” hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ lại được hiện ra với vẻ chân thật giản dị. những câu thơ hầu như để mộc, không trang điểm, không gọt rũa ngôn tư. Hình ảnh bình dị ấy, như được đưa thẳng từ đời thực vào thơ, không hề có dấu hiệu của sự ước lệ hay cổ điển. Bằng cách này, Chính Hữu đã khắc họa thành công chất hiền lành, tình nghĩa mộc mạc mà dung dị của tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng của những người nông dân áo vải:

    “Quê hương anh nước mặn đồng chua

    Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

    Không mang nét bi tráng “một đi không trở lại” của người lính Tây Tiến, nhưng tấm lòng của anh đối với quê hương đất nước thật cảm động:

    “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

    Gian nhà không để mặc gió lung lay”

    Ở nơi kháng chiến, người lính nông dân có chung quê hương vất vả, đói nghèo, chung tình giai cấp, chung lý tưởng sống và mục đích sống. Để từ những cái chung ấy học đã gắn bó keo sơn bền vững nối cuộc đời người lính với nhau thành hai tiếng Đồng đội. Từng lời thơ mang màu sắc tươi tắn  và tạo nên nhịp sống của những người chiến sĩ cách mạng.

    Khác với những người lính nông dân, nhưng người lính tiểu tư sản trong thơ Quang Dũng lại mang vẻ đẹp thật dị thường:

    “Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc

    Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

    Diện mạo người lính hiện ra thật dị thường: Rụng tóc, vì sốt rét rừng, đói ăn thiếu thôi nên da xanh như tàu lá. Nhưng mọi điều đó không làm nhụt đi ý chí của người chiến sỹ, ngược lại còn kiên cường bất khuất hơn “dữ oai hùm”. Ý thơ có sự tương phản giữa hình ảnh xanh xao tiều tụy về bệnh tật với ý chí kiên định, vững như bàn thạch của người lính. Từng câu thơ như tôn thêm ánh hào quang cho phẩm chất người lính Tây Tiến.

    Họ sống đã phi thường, chết còn phi thường hơn:

    “Áo bào thay chiếu anh về đất

    Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

    Bằng ngòi bút lãng mạn, Quang Dũng đã bất tử hóa cái chết của những người lính. Anh dùng từ “về đất” như muốn nói rằng các anh đã hòa mình vào non sông nước Việt. Mang đến cho các anh một cái chết lẫm liệt và tỏa ánh hào quang. Những câu thơ nói đến mất mát hi sinh nhưng lại không hề bi thảm, ngược lại nó nâng hình ảnh người lính lên một tầm cao hơn của thời đại. Anh ra đi, quê hương ôm anh vào lòng, sống núi tấu lên “khúc độc hành” đưa anh về với đất mẹ. Thử hỏi còn cái chết nào đẹp hơn thế?

    Những người lính Tây Tiến đâu chỉ có can đảm và lòng dũng cảm. Mang đậm chất con người Hà Nội nên học có một tâm hồn lãng mạn, tài hoa. Sống giữa thiên nhiên khắc nghiệt người lính vẫn nhận ra nét hùng vĩ mà rất đỗi nên thơ của rừng núi Tây Bắc. Trên những nẻo đường hành quân vất vả các anh vẫn phóng tầm mắt nhìn xuống những thung lũng phú kín trong mưa để ngắm nghía những ngôi nhà thấp thoáng ẩn hiện sau làn mưa mỏng “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Rồi cả những sợi khói chiều những “cơm nếp xôi” của bàn tay giá Mai Châu làm ấm lòng người chiến sỹ và để lại cho họ nhiều kỷ niệm khó quên.

    Đặc biệt, các ảnh còn tổ chức những đêm hội đuốc hoa rực rỡ, thắm thiết tình quân dân như chẳng hề có chiến tranh ở nơi đây. Bằng những nét vẽ mềm mại tinh tế của ngòi bút lãng mạn, Quang Dũng đã nâng tâm hồn người lính bay bổng trong khung cảnh Tây Bắc thơ mộng duyên dáng và tình tứ:

    “Doanh trại bừng lên hội đuốc, hoa

    Kìa em xiêm áo tự bao giờ

    Có nhớ dáng người trên độc mộc

    Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

    Ngược lại với nét hào hoa của người lính Tây Tiến, những người lính nông dân lại hiện lên giữa những khó khăn bình dị của cuộc sống đơn thường:

    “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

    Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi

    Áo anh rách vai

    Quần tôi có hai mảnh vá

    Miệng cười buốt gía

    Chân không giày

    Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

    Chính Hữu đã khắc họa hiện thực khó khăn mà người lính gặp phải. Những đó không phải là điều chủ yếu mà nhà thơ muốn nói đến. Cái nói đến ở đây là vẻ đẹp tâm hồn người lính ở nơi phát ra vầng ánh sáng lung linh chính là tình đồng đội, tình đồng chí. Ôi ấm áp biết mới cái xiết tay của đồng đội lúc gian khó. “miệng cười buốt giá” động viên nhau xua đi cái lạnh lẽo giá rét của thời tiết. Những câu thơ giản dị nhưng lại có sức lay động sâu xa lòng người đọc chúng ta.  Từ sự bình thường, hình ảnh người lính của Chính Hữu vẫn ánh lên được vẻ đẹp rực rỡ của lý tưởng, sẵn sàng hi sinh vì tổ quốc.

    Qua đây chúng ta có thể thấy được những nét điển hình trong phong cách thơ của hai tác phẩm. Với Tây Tiến đó là sự hào hùng bi tráng và mang nhiều màu sắc biểu tượng, còn với Chính Hữu sức mạnh đến từ sự chất phác giản dị đã làm nên người lính.

      bởi Nguyễn Linh Ngọc 29/12/2018
    Like (0) Báo cáo sai phạm
  • user

      bởi Độ ta Không độ nàng 07/01/2019
    Like (0) Báo cáo sai phạm
  • Bài Mẫu Số 1: Phân Tích Bút Pháp Và Cảm Hứng Lãng Mạn Trong Bài Thơ Tây Tiến Của Quang Dũng

    Quang Dũng sáng tác không nhiều, nhưng thơ ông để lại ấn tượng sâu sắc với những rung cảm sâu lắng trong tâm hồn người đọc. Thơ Quang Dũng hiện lên một "cái tôi" hào hoa, thanh lịch giàu chất lãng mạn, với khả năng cảm nhận một cách tinh tế vẻ đẹp của thiên nhiên và tình người, đồng thời lại rất mực hồn nhiên, bình dị, chân thật. Bài thơ Tây Tiến tiêu biểu cho hồn thơ ấy. Không lẩn tránh đề cập đến cái bi nhưng cảm hứng lãng mạn đã đem đến cho cái bi màu sắc và âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Tinh thần bi tráng, cảm hứng lãng mạn đã được triển khai trên nền cảm xúc kí ức - Nhớ Tây Tiến.

    Tây Tiến là tên một binh đoàn có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt - Lào, tiêu hao sinh lực địch. Phần đông lính Tây Tiến là những chàng trai Hà thành. Họ mang vào chiến trường không chỉ có tình yêu Tổ quốc, khát vọng độc lập mà còn có những nét hào hoa thanh lịch cùa người Tràng An. Cuộc sống gian khổ, thiếu thốn không ngăn được lính Tây Tiến vui vẻ, sôi nổi, yêu đời và mộng mơ.

    Năm 1947, Quang Dũng gia nhập binh đoàn Tây Tiến, ông từng là đại đội trưởng một đại đội thuộc binh đoàn này. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Nỗi nhớ Tây Tiến đau đáu, da diết đã khiến nhà thơ viết nên một bài thơ tuyệt tác.

    Tây Tiến gợi lên một cuộc hành quân về phía Tây Tổ quốc, một cuộc hành quân đầy gian lao vất vả giữa vùng rừng núi đầy hiểm trở, hung vĩ đầy vẻ hoang dại và huyền bí.

    Vốn sẵn tố chất hào hoa của người trai đất Hà thành , chất hào hoa lại được gặp thiên nhiên và con người miền Tây với vẻ đẹp huyền hoặc, Quang Dũng lại từng sống và chứng kiến những tháng ngày hào hung giữa binh đoàn Tây Tiến, hồn thơ ấy đã hòa quyện lại tất cả để tạo nên những thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn.

    Cảm hứng lãng mạn của bài thơ trước hết là nỗi nhớ ngập tràn: tác giả nhớ rừng núi hoang vu, hiểm trở, dữ dội, nhớ những cảnh đẹp huyền ảo nên thơ, đặc biệt là nhớ bước quân hành của đoàn quân Tây Tiến, nhớ gương mặt, ánh mắt, nhớ cả những hi sinh gian khổ, những giây phút đồng đội nằm xuống nơi biên cương. Tất cả cứ theo dòng hồi ức mà hiện lên cùng với trí tưởng tượng phóng khoáng, bay bổng.

    Để giúp cho trí tướng tượng bay cao, bay xa và tình cảm, cảm xúc được diễn tả một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất, nhà thơ đã vận dựng thủ pháp nghệ thuật tô đậm cái phi thường, gây ấn tượng mạnh về cái hùng vĩ, dữ dội cũng như cái tuyệt mĩ, thơ mộng. Một trong những thủ pháp nghệ thuật được sử dụng đắc địa nhất là thủ pháp đối lập. Đối lập giữa cái hùng vĩ, dữ dội với cái tuyệt mĩ, thơ mộng, đối lập giữa gian khổ, vất vả với anh hùng, bất khuất, đối lập giữa cái bi và cái hùng...

    Trong Tây Tiến, thiên nhiên sừng sững trở thành một hình tượng lớn. Hồn thơ lãng mạn cứa Quang Dũng đã tô đậm, tuyệt đối hóa cái sừng sững, hùng vĩ của thiên nhiên để qua đó thấy được ý chí dấn thân của người lính Tây Tiến.

    Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm

    Heo hút cồn mây, súng ngủi trời

    Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

    Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

    Bốn câu thơ trên được coi là tuyệt bút trong việc khắc họa cái hùng vĩ, hiểm trở cùa thiên nhiên. "Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm". Nhịp điệu tiếp nối liên tục của những thanh trắc kết hợp với cùng một lúc hai từ láy tượng hình (khúc khuỷu, thăm thẳm) dường như đã đẩy chiều cao của dốc núi lênn vời vợi với hình thế cheo leo, gập ghềnh. Cách ngắt nhịp câu thơ (Dốc lên khúc khuỷu / dốc thăm thẳm) như muốn diễn tả nỗi vất vả, cực nhọc cùng với lưng áo đẫm mồ hôi của người lính Tây Tiến.

    Chưa đủ, ngòi bút Quang Dũng vẫn tiếp tục đẩy chiều cao của dốc núi lên lên tuyệt đối: Heo hút cồn mây súng ngửi trời. Núi cao tưởng chừng như chạm mây, mây chất thành đống, thành cồn, "heo hút cồn mây", người lính như đứng trên mây, giữa bốn bề mây đến nỗi "súng ngửi trời". Chữ "ngửi" được dùng rất bạo. "Súng ngửi trời" là cách đo chiều cao của người lính - vừa chính xác, vừa rất "tếu". Hiệu quả của bút pháp lãng mạ không chỉ dựng lên một thiên nhiên hiểm trở mà còn dựng lên kích thước, tư thế của người lính, một tư thế, kích thước sánh ngang tầm thiên nhiên.

    Hai câu trước có sự phối hợp tuyệt vời của những thanh trắc. Dòng thơ tiếp theo như gãy đôi để vẽ ra hai chiều của dốc núi: một vút lên, một đổ xuống gần như thẳng đứng: "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống". Cảnh được dựng bằng thủ pháp đối lập để khắc họa cái dữ dội, hùng vĩ của núi rừng. Những dốc núi cao tới chóng mặt, bên dưới là vực sâu thăm thẳm. Người lính như treo mình giữa vách đá, trên một sườn núi giữa chặng đường hành quân.

    Ba câu trên thanh trắc chiếm ưu thế, câu thứ tư hoàn toàn thanh bằng:

    Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

    Đây cũng là một cách đối lập tạo ra sự tương phản giữa hai chặng đường hành quân: Vượt núi vất vả - dừng chân thoải mái. Câu thơ toàn thanh bằng với 6/7 tiếng là phù bình thanh cùng với hình ảnh những ngôi nhà ấm áp thấp thoáng ẩn hiện trong sương mù, mưa núi đã diễn tả trọn vẹn cái cảm giác thở phào nhẹ nhõm, thoải mái. Đúng là một dòng thơ bỗng "bay ngang lưng trời".

    Bút pháp lãng mạn vẫn được sử dụng để tô đậm vẻ hoang dại, dữ dội, đầy huyền bí, sự ghê gớm của rừng thiêng.

    Chiều chiều oai linh thác gầm thét

    Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

    Hai chi tiết tiêu biêu (thác gầm thét, cọp trêu người) gắn với hai thời điểm tiêu biểu (chiều chiều, đêm đêm), không phải một chiều, một đêm mà thời gian lặp lại mang tính liên tục, không gian như bị vây bọc bởi những âm thanh man dại. Câu thơ tạo nên ấn tượng mạnh mẽ trong trí tưởng tượng của người đọc.

    Cảm xúc lãng mạn được xây dựng trên nền cảm xúc kí ức. Đoạn thơ được viết ra như một dòng kí ức đứt, nối, mờ tỏ liên tục. Cho nên đan cài với những câu thơ tả cảnh dữ dội, hùng vĩ là những câu thơ mênh mang, chơi vơi. Hai câu cuối đoạn là một sự đầm ấm bất ngờ đến ngây ngất bởi tiếng gọi thiết tha vang lên tự đáy lòng (Nhớ ôi Tây Tiến), bởi hình ảnh gợi sự thanh thản, đầm ấm đến nao lòng (cơm lên khỏi, thơm nếp xôi). Hai câu thơ còn có giá trị chuyển cảnh, chuyển đoạn.

    Nếu ở đoạn trên, bút pháp lãng mạn đã tô đậm vẻ hoang dại, hùng vĩ của thiên nhiên thì ở đoạn tiếp theo, cảm hứng lãng mạn lại gây ấn tượng mạnh về cái thơ mộng, tuyệt mĩ của núi rừng và con người Tây Bắc.

    Đêm liên hoan văn nghệ có " đuốc" có "hoa", có tiếng khèn, điệu múa và nhất là có hình ảnh những thiếu nữ miền Tây Bắc trong trang phục dân tộc óng ánh sắc màu, hoa văn núi rừng. E ấp trong những điệu xòe duyên dáng. Tất cả như say, như mơ, như mê đế "hồn thơ" được "xây" lên từ đó.

    Cảnh sông nước bộc lộ hồn thơ nhạy cảm, tinh tế và tài hoa của Quang Dũng. Làn sương chiều mỏng, dáng lau đơn sơ, phơ phất, dáng người trên độc mộc, dòng nước, hoa đong đưa tình tứ... Nhà thơ không tả mà chỉ gợi bằng những câu thơ thiên về cảm tính trực giác. Cái nhạt nhòa hư ảo càng được tăng lên bởi những từ ngữ gợi nhớ một nỗi nhớ mênh mang (chiều sương ấy, có thấy, có nhớ, người đi, hồn lau, bến bờ, dòng nước, đong dưa...). Tất cả cứ lung linh, khó nắm bắt. Chỉ có thể cam nhận bằng tâm hồn - một tâm hồn chứa tận cùng sâu thẳm là tình yêu và nỗí nhớ.

    Mỗi đoạn thơ có một giá trị riêng. Song đặt hai đoạn thơ cạnh nhau, bút pháp lãng mạn càng được nổi bật bởi sự tương phản đôi lập. Nếu ở đoạn 1cảnh được vẽ bằng những nét bút gân guốc, táo bạo, khỏe khoắn thì ở đoạn 2 cảnh lại được vẽ bởi những nét bút mềm mại, tinh tế. Hai nét vẽ đó dựng lên hoàn chỉnh bức tranh thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, bí hiểm vừa thơ mộng, mĩ lệ. Đó chính là chất tài hoa trong ngòi bút Quang Trung.

    Bút pháp lãng mạn tiếp tục được nhà thơ khai thác triệt để khi xây dựng chân dung người lính Tây Tiến. Thật ra không phải đến đây hình ảnh người lính mới hiện lên mà ở hai phần trên, hình ảnh người lính cứ thấp thoáng ẩn hiện: ở tư thế trèo đèo, lội suối, ở những phút dừng chân giữa chặng đường hành quân, ở "đêm hội đuốc hoa" và "Châu Mộc chiều sương ấy"... thậm chí có lúc hiện lên rât rõ:

    Anh bạn dãi dầu không bước nữa

    Gục lên súng mũ bỏ quên đời

    Tuy nhiên, phải đến đoạn thơ thứ ba, hình ảnh người lính Tây Tiến mới hiện lên đầy đủ. Hai câu mở đoạn: "Tây Tiến đoàn bình không mọc tóc / Quân xanh màu lá dữ oai hùm" đã gây ra nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho "không mọc tóc" là do người lính cạo trọc đầu (người ta gọi là những anh "vệ trọc") còn "xanh màu lá" là xanh màu lá ngụy trang. Đó là những người lính dũng cảm, can trường. Có người khác lại cho "không mọc tóc" là do sốt rét rụng hết tóc, còn "xanh màu lá" là màu da xanh như lá (do sốt rét). Tác giả muốn tô đậm những gian khổ, đói rét, ốm đau của người lính...

    Nhà thơ Trần Lê Văn, một chiến sĩ Tây Tiến đã từng nói: "Đánh trận tử vong ít, sốt rét tử vong nhiều". Chính Quang Dũng cũng có lần tâm sự: "Chúng tôi hành quân bằng đôi chân thực sự đã nếm mùi Tây Tiến. Chúng tôi mở rừng, ăn rừng, ngủ rừng". Thiếu thốn, đói rét, ốm đau là một thực tế. Nhà thơ nói đến tất cả những điều đó nhưng ý thơ lại được nâng đỡ bởi bút pháp lãng mạn. Quang Dũng đã khắc họá chân dung người lính hết sức lẫm liệt, oai hùng. Tác giả dùng hai chữ "đoàn binh" mà không dùng "đoàn quân". Cái "dữ oai hùm" khiến ta nhớ đến câu thơ hừng hực "hào khí Đông A" của Phạm Ngũ Lão: "Tam quân tì hổ khí thôn ngưu".

    Nhà thơ không miêu tả một gương mặt riêng biệt mà dồn tất cả sự đối lập tạo nên một gương mặt chung khiến ta vừa cảm động, vừa cảm phục, vừa xót thương vừa tự hào. Hình ảnh thơ tuy có thiên về nét vẽ hình thể nhưng lại giúp người đọc thấy rõ hơn khí phách hào hùng của những chiến sĩ Tây Tiến - những anh "vệ trọc" nổi tiếng một thời.

    Giữa hai câu trước và hai câu sau lại tạo nên một đối lập khác: đối lập với mắt trừng", "oai hùm" là "mộng", là "mơ", đặc biệt là câu:

    Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

    Thật hào hùng mà cũng thật hào hoa. Chiến tranh tàn khốc rất cần đến - những nét dữ dằn nhưng không thể giết chết những giấc mơ, không thể cướp đi những mộng đẹp. Đó là vẻ đẹp và đó cũng là sức mạnh.

    Trước đây có người cho rằng người chiến sĩ Tây Tiến trong bài thơ chỉ có cái vẻ "yên hùng", khí phách bên ngoài, còn bên trong yếu ớt, tiểu tư sản, mơ mộng viển vông. Nhưng người lính trong Đồng chí của Chính Hữu nhớ "giếng nước gốc đa", nhớ "bạn thân cày", nhớ "gian nhà không"... Người lính trong Nhớ của Hồng Nguyên nhớ đến cháy lòng người vợ trẻ "mòn chân bên cối gạo canh khuya"... thì người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng mơ về Hà Nội để nhớ một dáng hình con gái thì cũng là một điều dễ hiểu. Trong chiến tranh, nếu người lính không còn biết mơ, biết nhớ, không còn mảy may rung động trước một bông hoa đẹp hay sắc đẹp cùa một người con gái thì điều đó quả thật là vô cùng đáng sợ. Họ chiến đấu làm gì? Vì ai? Nếu không phải là để trả lại cho con người, cho dân tộc những giá trị nhân văn cao đẹp như vậy.

    Bài thơ còn dựng lên hai tinh thần đối lập mà thống nhất: bi và hùng, tạo thành chất lãng mạn bi tráng, một khúc độc tấu mang âm hưởng tráng ca.

    Tất cả những gian khổ thử thách, đói rét ốm đau mà nhà thơ đề cập đến trong suốt hai phần đầu bài thơ như một sự chuẩn bị tâm lí cho người đọc để đến khi tác giả nói về cái chết (phần 3) không gây nên cảm giác đột ngột. Tuy không đột ngột và mặc dù quá hiểu chiến tranh là thế - có thể ngã xuống bất cứ lúc nào, song đọc những câu thơ của Quang Dũng, chúng ta vẫn thấy một cảm giác chơi vơi khó gọi tên. Cũng chính những câu thơ ấy đã bất tử hóa cái chết, anh hùng hóa sự hi sinh để nâng đỡ cảm giác buồn đau, hẫng hụt, thành thử bi thương mà không bi lụy, bi ca chứ không phải khốc ca. Chính điều đó làm nên một khúc độc tấu bi tráng rền vang sông núi và lay động lòng người.

    Rải rác biên cương mồ viễn xứ

    Mỗi người lính ngã xuống, những nấm mộ mọc lên. Những nấm mộ rải rác khắp biên cương là dấu tích cùa biết bao nỗi buồn thầm lặng. Nhà thơ nhìn xuyên suốt con đường hành quân của Tây Tiến mà lặng đi đến tê người khi trước mắt anh hiện lên những nấm mộ đồng chí, đồng đội.

    Câu thơ sau nhanh chóng gạt đi những cảm giác bi thương giống như có một lực đẩy vô hình:

    Chiến trường đi chẳng tiếc dời xanh!

    Câu thơ vừa mang dáng dấp cuộc ra đi "nhất khứ hề" của Kinh Kha tráng sĩ vừa mang âm hướng của những cuộc ra đi trong thơ lãng mạn Việt Nam trước cách mạng với những "li khách" cùa Thâm Tâm, "khách chinh phu" của Thế Lữ.. Hơn nữa, các từ Hán - Việt: "biên cương", "viễn xứ", "chiến trường", ... có sức âm vang tạo nên tính cổ điển của hình tượng. Tuy nhiên, chất làng mạn của câu thơ Quang Dũng là chất lãng mạn cách mạng, lãng mạn anh hùng. Quang Dũng đã nói được một điều cốt lõi trong nhân cách người lính: biết hi sinh vẫn dấn thân, ra đi chẳng tiếc đời mình, tuổi thanh xuân đẹp nhất hiến dâng cho lí tưởng. Họ ngã xuống thanh thản, nhẹ nhàng thậm chí nụ cười vẫn nở trên môi. Quang Dũng đã gạt nước mắt để ngẩng cao đầu với niềm tự hào kiêu hãnh.

    Hai câu tiếp theo cũng mang cảm hứng tương tự :

    Áo bào thay chiếu anh về đất

    Sông Mã gầm lên khúc độc hành

    Có người hiểu là lấy áo bào thay cho chiếu, có người lại hiểu là áo bào được thay bằng chiếu. Quang Dũng có lần tâm sự : ngay cả khi nằm xuống, người tử sĩ cũng không có đủ manh chiếu liệm. Nói "áo bào thay chiếu" là cách nói của người lính chúng tôi, cách nói ước lệ của thơ trước đây để an ủi những đồng chí của mình đã ngã xuống giữa rừng". Thế là đã rõ. Không có chiến bào. Thậm chí không có cả chiếu liệm. Nhưng không thể để đau thương, buồn thảm quật ngã. Câu thơ độc đáo của Quang Dũng đã lãng mạn hóa cái chết, làm cho cái chết trở thành một sự ra đi nhẹ nhàng, thanh thản, ung dung với một vẻ đẹp hào hùng, oai phong và sang trọng. Giọng thơ như muốn hạ xuống cung bậc thấp nhất phù hợp với nỗi tiếc thương, nhưng hạ thấp để cuối cùng vút lên với cung bậc dữ dội và hùng tráng:

    Sông Mã gầm lên khúc độc hành

    Những mất mát, đau thương như dồn nén, tích tụ trong tiếng gầm vang rung chuyển cả núi rừng của dòng sông Mã. Những người lính Tây Tiến hi sinh là trở về với thiên nhiên, trở về với đất mẹ và các anh lại hóa thân vào thiên nhiên để hát mãi khúc quân hành.

    Tây Tiến có phảng phất nét buồn đau nhưng đó là nét buồn đau bi tráng. Nằm trong thi pháp chung của nền văn học 1945 - 1975, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lăng mạn, Tây Tiến đã để lại dấu ấn riêng độc đáo. Đó là sự phối hợp hài hòa giữa các mặt đối lập trong các hình tượng thơ. Tây Tiến còn là sự gửi gắm tất cả men say ước nguyện của Quang Dũng vào sự nghiệp cứu nước. Vì thế, Tây Tiến hấp dẫn người đọc bởi thế giới nghệ thuật của cái đẹp, cái cao cả hào hùng - sản phẩm của một bút pháp và cảm hứng lãng mạn.

    Trên đây là phần Phân tích bút pháp và cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng bài tiếp theo, các em chuẩn bị trả lời câu hỏi SGK, Soạn bài Tây Tiến và cùng với phần Cảm nhận bài Tây Tiến để học tốt tiếng Việt lớp 5 hơn.

     

    Bài Mẫu Số 2: Phân Tích Bút Pháp Và Cảm Hứng Lãng Mạn Trong Bài Thơ Tây Tiến Của Quang Dũng

    Vào một đêm cuối năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, cái làng nhỏ nằm bên bờ sông hiền hòa thơ mộng, Quang Dũng bồi hồi nhớ lại những kỉ niệm còn như,tươi nguyên. Hình ảnh những ngày Tây Tiến sống dậy trong tâm trí ông. Bây giờ, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta mới bước sang năm thứ hai, nhưng đã liên tiếp ghi được những chiến công vang dội, bẻ gãy cuộc tiến công lên căn cứ địa Việt Bắc, Thu đông 1946.

    Năm ấy, Quang Dũng trong đoàn quân Tây Tiến làm nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt Lào; đánh địch trên tuyến rừng Tây Bắc từ Lai Châu đến phía Bắc Thanh Hóa. Đời lính chống Pháp vốn vô cùng thiếu thốn khổ cực, người lính trong trung đoàn Tây Tiến còn thiếu thốn khổ cực hơn. Vì "rừng thiêng nước độc", sốt rét hoành hành, thuốc men ít ỏi, vì đường hành quân là trập trùng núi rừng Tây Bắc - Thượng Lào hoang vu hiểm trở... Cũng như tất cả những người lính Cụ Hồ ấy, bên tai còn văng vẳng lời thề "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", lời hát hào hùng "bao chiến sĩ anh hùng, lạnh lùng vung gươm ra sa trường", những chàng trai Tây Tiến chiến đấu bằng phẩm chất anh hùng. Có điều lính Tây Tiến hầu hết là thanh niên Hà Nội, trong đó phần đông là học sinh, tiểu tư sản trí thức nên chất anh hùng của người lính Tây Tiến có phong thái và màu sắc riêng - màu sắc lãng mạn, hào hoa.

    Trước hết cảm hứng lãng mạn Tây Tiến được nuôi dưỡng bằng "nỗi nhớ", thật thiết tha mãnh liệt nhưng cũng thật "chơi vơi" như sự diễn tả của Quang Dũng:

    Sông Mã xã rồi Tây Tiến ơi

    Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.

    Từ "chơi vơi" ở đây được dùng thật đắc địa. Nó đã lột tả được nỗi nhớ trong tâm tưởng nhà thơ. Được sống trong cảm hứng lãng mạn, nỗi nhớ ấy mới như giăng mắc một màn sương, rất khó định hình, rất khó gọi tên. Cũng như môi trường tình cảm này mà cả cuộc sống gian khổ chiến đấu với chiến trường, người lính như chìm đắm trong một thế giới phi thường, có gì bí ẩn nhưng cũng thật hào hùng, tha thiết và gần gũi.

    Chiến trường trong bài thơ gian khổ, khắc nghiệt nhưng đồng thời cũng là thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ, ấm áp và mềm mại, có lúc thật hiền hòa thơ mộng. Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc có núi cao, vực sâu, dốc đứng, thác gầm, cồn mây heo hút, lại cả nét duyên dáng của bông hoa đung đưa theo dòng nước lũ, của cô gái trên con thuyền độc mộc... Trên cái nền thiên nhiên kì vĩ, dữ dội, trữ tình ấy, nổi bật lên hình ảnh đoàn quân Tây Tiến khi thì như bị lấp hút đi, khi thì như người đi tìm cảm giác mạnh và đẹp giữa núi rừng. Sự đối chọi và hòa hợp này đã làm nên khí phách anh hùng, vẻ hào hoa của người lính kháng chiến, tạo cho họ sự hấp dẫn và vẻ đẹp khó quên.

    Phải vậy chăng mà càng qua thời gian, vẻ đẹp Tây Tiến càng đẹp hơn, lúc nào cũng lôi cuốn, làm say mê người đọc?

    Hình ảnh người lính thật kì dị, khác thường: da xanh màu lá, đầu trụi tóc do thiếu thốn bệnh tật vì những cơn sốt rét rừng. Những hình ảnh thực đó vào bài thơ, với giọng và cách diễn tả lãng mạn của Quang Dũng thành ra như mang nghĩa tượng trưng, rất có khí phách:

    Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

    Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

    Hoặc cái chết cũng vậỵ, những cái chết "hàng loạt" hay những cái chết đau thương - chết mà không biết chết - cũng đều thật hào hùng:

    Rải rác biên cương mồ viễn xứ

    Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

    Áo bào thay chiếu anh về đất

    Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

    Bởi lẽ ngòi bút Quang Dũng không run sợ trước cái chết của đồng đội. Nhà thơ chỉ muốn "gió bụi, phong trần" hóa cái chết ấy. Và làm đẹp cho hình ảnh người lính "rải rác biên cương mồ viễn xứ"; "áo bào thay chiếu anh về đất", để ta càng nghe càng như thấy khúc tráng ca về người chiến sĩ tự thuở nào. Hiện thực đầy xót xa, thương cảm, những người lính hi sinh được chôn vào đất không có cả manh chiếu cuốn mà chỉ có áo mặc trên người. Vậy mà bằng ngòi bút lãng mạn, Quang Dũng đã nâng sự thực ấy thành một vẻ đẹp thật hào hùng.

    Có thể nói, nét độc đáo của thơ Quang Dũng thường lộ rõ khi thơ ông chen giữa hai thái cực, đã hiện thực thì hiện thực đến dữ dội, đã lãng mạn thì lãng mạn đến mộng mơ. Bút pháp này thể hiện rất rõ khi miêu tả thiên nhiên miền Tây Bắc. Ấy là những câu thơ hầu hết là vần bằng được nằm xen kẽ, bên cạnh những câu vần trắc tạo sự đối lập trong âm hưởng. Những câu thơ đó, vì thế mà rất giàu chất tạo hình và gợi cảm. Thiên nhiên vốn đã đẹp và thơ mộng, giờ đây tựa như huyền thoại:

    Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

    Nếu như "sương lấp" lạnh lùng, nặng nề đe dọa bao nhiều thì "hoa về" lại nhẹ nhõm, tươi tắn, ấm áp bấy nhiêu. "Hoa về trong đêm hơi" diễn tả một trạng thái lâng lâng vừa đến trong một chặng đường mệt mỏi. Khung cảnh núi rừng mà đoàn quân Tây Tiến bước chân qua, vừa thơ mộng lại vừa hùng vĩ. Tất cả đều được tác giả thể hiện ở khoảng cách xa xa, hư ảo với kích thước có phần phóng đại khác thường. Nói về cái hiểm trở, tác giả đã dùng những hình ảnh thật độc đáo:

    Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

    Heo hút cồn mây súng ngửi trời.

    Tác giả không viết "súng chạm trời" mà là "súng ngửi trời", đây là thủ pháp cường điệu hóa (đặc trưng của bút pháp lãng mạn), ngoài ra còn thể hiện chất hóm hỉnh, tinh nghịch của người lính. Không những thế, khi nói về dôc cao, tác giả lại dùng tính từ chỉ độ sâu "heo hút cồn mây" và có những câu thơ như bẻ gãy làm đôi:

    Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống.

    Ngòi bút Quang Dũng thật độc đáo, đầy ấn tượng. Nếu thơ là nơi thể hiện đầy đủ nhất, sâu sắc nhất ma lực kì ảo của ngôn ngữ thì những câu thơ này quả đúng như vậy.

    Tuy nhiên bút pháp lãng mạn không chi thể hiện ở việc miêu tả thiên nhiên mà còn thể hiện rất rõ trong việc miêu tả phong thái Sống của người chiến sĩ Tây Tiến. Đọc hai câu thơ:

    Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

    Quân xanh màu lá dừ oai hùm

    Ta thấy rất rõ sự hiện diện của gian khổ khốc liệt. Nhưng điều đặc biệt là những gian khổ khốc liệt này lại dường như lẫn vào bên trong, còn cái hiện ra bên ngoài lại rất lãng mạn. Câu thơ tạo nên hình ảnh đối lập: bên ngoài thì da xanh như lá, đầu không mọc tóc, nhưng bên trong người chiến sĩ thể hiện một phong độ anh hùng, dữ dội và oai như hùm nơi rừng thiêng nước độc. Quang Dũng đã không che giấu những gian khổ, thiếu thốn, nguy hiểm mà những người lính phải chịu đựng. Chỉ có điều, qua cái nhìn lãng mạn của ông, họ không ốm yếu, không bi lụy mà chứa đựng một sức mạnh phi thường, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng. Hình tượng người lính vì thế mang dáng vẻ anh hùng kiểu chinh phu một đi không trở lại.

    Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

    Không những thế, bằng ngòi bút lãng mạn của mình, Quang Dũng đà tạo nên một bức tượng đài tập thể không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ:

    Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,

    Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

    Giữa núi rừng miền Tây, họ nhớ về một "dáng kiều thơm", một bóng hồng thướt tha. Trong bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên, người chiến sĩ cũng nhớ ve quê hương nhưng đây là nỗi nhớ của người lính xuất thân từ nông dân, bởi thế nỗi nhớ ấy cũng thiết tha nhưng vẫn mộc mạc, chân thành và gắn liền với những công việc thường ngày:

    Ba năm rồi gửi lại quê hương

    Mái lều tranh

    Tiếng mõ đêm trường

    Luống cày đất đỏ

    Ít nhiều người vợ trẻ

    Mòn chân bên cối gạo canh khuya,

    Đã có một thời nỗi nhớ ấy của những người lính Tây Tiến bị lên án là "mộng buồn, mộng rớt", của tầng lớp tiểu tư sản. Nhưng nếu giữa cuộc chiến đầy gian khổ, một đi không hẹn ngày trở về này mà những người lính không nghĩ đến những điều tốt đẹp, không mơ mộng yêu thương thì liệu họ có còn đủ dũng khí để vượt qua gian nan, hiểm nguy và chiến đấu anh dũng không? Trong hoàn cảnh ấy thì niềm tin, chất lãng mạn chính là điểm tựa để con người thêm vững chí.

    Nét đặc sắc của Tây Tiến là nói về chiến tranh mà không có một chừ nào về "trận đánh", về "tiếng súng". Và ba lần nói đến cái chết thì đều miêu tả một cách thật giản dị "bỏ quên đời", "về đất", "hồn về" để bình thường hóa cái chết. Cảm hứng lãng mạn khiến ngòi bút của ông nói nhiều đến cái buồn, cái chết như những chất liệu thẩm mĩ tạo nên cái đẹp mang chất bi hùng. Cảm hứng của Quang Dũng mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bởi đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến.

    Vượt qua sức cản phá của thời gian, Tây Tiến vẫn còn sức quyến rũ với chúng ta hôm nay, gợi nhớ về "những năm tháng không thể nào quên" trong lịch sử dân tộc. Có thể nói Tây Tiến là "một tượng đài bất tử" về người lính vô danh mà Quang Dũng đã dựng lên bằng cả tâm hồn và cảm hứng lãng mạn hào hùng của mình.

    Cùng với những bài thơ tiêu biểu của thời kì kháng chiến như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên... Tây Tiến của Quang Dũng đã miêu tả thành công về đề tài người lính, đã góp vào viện bảo tàng về người lính bức chân dung người lính Tây Tiến độc đáo, lãng mạn và bi tráng.

     

      bởi @%$ Đạo 05/06/2019
    Like (1) Báo cáo sai phạm
  • Quang Dũng sáng tác không nhiều, nhưng thơ ông để lại ấn tượng sâu sắc với những rung cảm sâu lắng trong tâm hồn người đọc. Thơ Quang Dũng hiện lên một "cái tôi" hào hoa, thanh lịch giàu chất lãng mạn, với khả năng cảm nhận một cách tinh tế vẻ đẹp của thiên nhiên và tình người, đồng thời lại rất mực hồn nhiên, bình dị, chân thật. Bài thơ Tây Tiến tiêu biểu cho hồn thơ ấy. Không lẩn tránh đề cập đến cái bi nhưng cảm hứng lãng mạn đã đem đến cho cái bi màu sắc và âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Tinh thần bi tráng, cảm hứng lãng mạn đã được triển khai trên nền cảm xúc kí ức - Nhớ Tây Tiến.

    Tây Tiến là tên một binh đoàn có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt - Lào, tiêu hao sinh lực địch. Phần đông lính Tây Tiến là những chàng trai Hà thành. Họ mang vào chiến trường không chỉ có tình yêu Tổ quốc, khát vọng độc lập mà còn có những nét hào hoa thanh lịch cùa người Tràng An. Cuộc sống gian khổ, thiếu thốn không ngăn được lính Tây Tiến vui vẻ, sôi nổi, yêu đời và mộng mơ.

    Năm 1947, Quang Dũng gia nhập binh đoàn Tây Tiến, ông từng là đại đội trưởng một đại đội thuộc binh đoàn này. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Nỗi nhớ Tây Tiến đau đáu, da diết đã khiến nhà thơ viết nên một bài thơ tuyệt tác.

    Tây Tiến gợi lên một cuộc hành quân về phía Tây Tổ quốc, một cuộc hành quân đầy gian lao vất vả giữa vùng rừng núi đầy hiểm trở, hung vĩ đầy vẻ hoang dại và huyền bí.

    Vốn sẵn tố chất hào hoa của người trai đất Hà thành , chất hào hoa lại được gặp thiên nhiên và con người miền Tây với vẻ đẹp huyền hoặc, Quang Dũng lại từng sống và chứng kiến những tháng ngày hào hung giữa binh đoàn Tây Tiến, hồn thơ ấy đã hòa quyện lại tất cả để tạo nên những thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn.

    Cảm hứng lãng mạn của bài thơ trước hết là nỗi nhớ ngập tràn: tác giả nhớ rừng núi hoang vu, hiểm trở, dữ dội, nhớ những cảnh đẹp huyền ảo nên thơ, đặc biệt là nhớ bước quân hành của đoàn quân Tây Tiến, nhớ gương mặt, ánh mắt, nhớ cả những hi sinh gian khổ, những giây phút đồng đội nằm xuống nơi biên cương. Tất cả cứ theo dòng hồi ức mà hiện lên cùng với trí tưởng tượng phóng khoáng, bay bổng.

    Để giúp cho trí tướng tượng bay cao, bay xa và tình cảm, cảm xúc được diễn tả một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất, nhà thơ đã vận dựng thủ pháp nghệ thuật tô đậm cái phi thường, gây ấn tượng mạnh về cái hùng vĩ, dữ dội cũng như cái tuyệt mĩ, thơ mộng. Một trong những thủ pháp nghệ thuật được sử dụng đắc địa nhất là thủ pháp đối lập. Đối lập giữa cái hùng vĩ, dữ dội với cái tuyệt mĩ, thơ mộng, đối lập giữa gian khổ, vất vả với anh hùng, bất khuất, đối lập giữa cái bi và cái hùng...

    Trong Tây Tiến, thiên nhiên sừng sững trở thành một hình tượng lớn. Hồn thơ lãng mạn cứa Quang Dũng đã tô đậm, tuyệt đối hóa cái sừng sững, hùng vĩ của thiên nhiên để qua đó thấy được ý chí dấn thân của người lính Tây Tiến.

    Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm

    Heo hút cồn mây, súng ngủi trời

    Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

    Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

    Bốn câu thơ trên được coi là tuyệt bút trong việc khắc họa cái hùng vĩ, hiểm trở cùa thiên nhiên. "Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm". Nhịp điệu tiếp nối liên tục của những thanh trắc kết hợp với cùng một lúc hai từ láy tượng hình (khúc khuỷu, thăm thẳm) dường như đã đẩy chiều cao của dốc núi lênn vời vợi với hình thế cheo leo, gập ghềnh. Cách ngắt nhịp câu thơ (Dốc lên khúc khuỷu / dốc thăm thẳm) như muốn diễn tả nỗi vất vả, cực nhọc cùng với lưng áo đẫm mồ hôi của người lính Tây Tiến.

    Chưa đủ, ngòi bút Quang Dũng vẫn tiếp tục đẩy chiều cao của dốc núi lên lên tuyệt đối: Heo hút cồn mây súng ngửi trời. Núi cao tưởng chừng như chạm mây, mây chất thành đống, thành cồn, "heo hút cồn mây", người lính như đứng trên mây, giữa bốn bề mây đến nỗi "súng ngửi trời". Chữ "ngửi" được dùng rất bạo. "Súng ngửi trời" là cách đo chiều cao của người lính - vừa chính xác, vừa rất "tếu". Hiệu quả của bút pháp lãng mạ không chỉ dựng lên một thiên nhiên hiểm trở mà còn dựng lên kích thước, tư thế của người lính, một tư thế, kích thước sánh ngang tầm thiên nhiên.

    Hai câu trước có sự phối hợp tuyệt vời của những thanh trắc. Dòng thơ tiếp theo như gãy đôi để vẽ ra hai chiều của dốc núi: một vút lên, một đổ xuống gần như thẳng đứng: "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống". Cảnh được dựng bằng thủ pháp đối lập để khắc họa cái dữ dội, hùng vĩ của núi rừng. Những dốc núi cao tới chóng mặt, bên dưới là vực sâu thăm thẳm. Người lính như treo mình giữa vách đá, trên một sườn núi giữa chặng đường hành quân.

    Ba câu trên thanh trắc chiếm ưu thế, câu thứ tư hoàn toàn thanh bằng:

    Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

    Đây cũng là một cách đối lập tạo ra sự tương phản giữa hai chặng đường hành quân: Vượt núi vất vả - dừng chân thoải mái. Câu thơ toàn thanh bằng với 6/7 tiếng là phù bình thanh cùng với hình ảnh những ngôi nhà ấm áp thấp thoáng ẩn hiện trong sương mù, mưa núi đã diễn tả trọn vẹn cái cảm giác thở phào nhẹ nhõm, thoải mái. Đúng là một dòng thơ bỗng "bay ngang lưng trời".

    Bút pháp lãng mạn vẫn được sử dụng để tô đậm vẻ hoang dại, dữ dội, đầy huyền bí, sự ghê gớm của rừng thiêng.

    Chiều chiều oai linh thác gầm thét

    Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

    Hai chi tiết tiêu biêu (thác gầm thét, cọp trêu người) gắn với hai thời điểm tiêu biểu (chiều chiều, đêm đêm), không phải một chiều, một đêm mà thời gian lặp lại mang tính liên tục, không gian như bị vây bọc bởi những âm thanh man dại. Câu thơ tạo nên ấn tượng mạnh mẽ trong trí tưởng tượng của người đọc.

    Cảm xúc lãng mạn được xây dựng trên nền cảm xúc kí ức. Đoạn thơ được viết ra như một dòng kí ức đứt, nối, mờ tỏ liên tục. Cho nên đan cài với những câu thơ tả cảnh dữ dội, hùng vĩ là những câu thơ mênh mang, chơi vơi. Hai câu cuối đoạn là một sự đầm ấm bất ngờ đến ngây ngất bởi tiếng gọi thiết tha vang lên tự đáy lòng (Nhớ ôi Tây Tiến), bởi hình ảnh gợi sự thanh thản, đầm ấm đến nao lòng (cơm lên khỏi, thơm nếp xôi). Hai câu thơ còn có giá trị chuyển cảnh, chuyển đoạn.

    Nếu ở đoạn trên, bút pháp lãng mạn đã tô đậm vẻ hoang dại, hùng vĩ của thiên nhiên thì ở đoạn tiếp theo, cảm hứng lãng mạn lại gây ấn tượng mạnh về cái thơ mộng, tuyệt mĩ của núi rừng và con người Tây Bắc.

    Đêm liên hoan văn nghệ có " đuốc" có "hoa", có tiếng khèn, điệu múa và nhất là có hình ảnh những thiếu nữ miền Tây Bắc trong trang phục dân tộc óng ánh sắc màu, hoa văn núi rừng. E ấp trong những điệu xòe duyên dáng. Tất cả như say, như mơ, như mê đế "hồn thơ" được "xây" lên từ đó.

    Cảnh sông nước bộc lộ hồn thơ nhạy cảm, tinh tế và tài hoa của Quang Dũng. Làn sương chiều mỏng, dáng lau đơn sơ, phơ phất, dáng người trên độc mộc, dòng nước, hoa đong đưa tình tứ... Nhà thơ không tả mà chỉ gợi bằng những câu thơ thiên về cảm tính trực giác. Cái nhạt nhòa hư ảo càng được tăng lên bởi những từ ngữ gợi nhớ một nỗi nhớ mênh mang (chiều sương ấy, có thấy, có nhớ, người đi, hồn lau, bến bờ, dòng nước, đong dưa...). Tất cả cứ lung linh, khó nắm bắt. Chỉ có thể cam nhận bằng tâm hồn - một tâm hồn chứa tận cùng sâu thẳm là tình yêu và nỗí nhớ.

    Mỗi đoạn thơ có một giá trị riêng. Song đặt hai đoạn thơ cạnh nhau, bút pháp lãng mạn càng được nổi bật bởi sự tương phản đôi lập. Nếu ở đoạn 1cảnh được vẽ bằng những nét bút gân guốc, táo bạo, khỏe khoắn thì ở đoạn 2 cảnh lại được vẽ bởi những nét bút mềm mại, tinh tế. Hai nét vẽ đó dựng lên hoàn chỉnh bức tranh thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, bí hiểm vừa thơ mộng, mĩ lệ. Đó chính là chất tài hoa trong ngòi bút Quang Trung.

    Bút pháp lãng mạn tiếp tục được nhà thơ khai thác triệt để khi xây dựng chân dung người lính Tây Tiến. Thật ra không phải đến đây hình ảnh người lính mới hiện lên mà ở hai phần trên, hình ảnh người lính cứ thấp thoáng ẩn hiện: ở tư thế trèo đèo, lội suối, ở những phút dừng chân giữa chặng đường hành quân, ở "đêm hội đuốc hoa" và "Châu Mộc chiều sương ấy"... thậm chí có lúc hiện lên rât rõ:

    Anh bạn dãi dầu không bước nữa

    Gục lên súng mũ bỏ quên đời

    Tuy nhiên, phải đến đoạn thơ thứ ba, hình ảnh người lính Tây Tiến mới hiện lên đầy đủ. Hai câu mở đoạn: "Tây Tiến đoàn bình không mọc tóc / Quân xanh màu lá dữ oai hùm" đã gây ra nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho "không mọc tóc" là do người lính cạo trọc đầu (người ta gọi là những anh "vệ trọc") còn "xanh màu lá" là xanh màu lá ngụy trang. Đó là những người lính dũng cảm, can trường. Có người khác lại cho "không mọc tóc" là do sốt rét rụng hết tóc, còn "xanh màu lá" là màu da xanh như lá (do sốt rét). Tác giả muốn tô đậm những gian khổ, đói rét, ốm đau của người lính...

    Nhà thơ Trần Lê Văn, một chiến sĩ Tây Tiến đã từng nói: "Đánh trận tử vong ít, sốt rét tử vong nhiều". Chính Quang Dũng cũng có lần tâm sự: "Chúng tôi hành quân bằng đôi chân thực sự đã nếm mùi Tây Tiến. Chúng tôi mở rừng, ăn rừng, ngủ rừng". Thiếu thốn, đói rét, ốm đau là một thực tế. Nhà thơ nói đến tất cả những điều đó nhưng ý thơ lại được nâng đỡ bởi bút pháp lãng mạn. Quang Dũng đã khắc họá chân dung người lính hết sức lẫm liệt, oai hùng. Tác giả dùng hai chữ "đoàn binh" mà không dùng "đoàn quân". Cái "dữ oai hùm" khiến ta nhớ đến câu thơ hừng hực "hào khí Đông A" của Phạm Ngũ Lão: "Tam quân tì hổ khí thôn ngưu".

    Nhà thơ không miêu tả một gương mặt riêng biệt mà dồn tất cả sự đối lập tạo nên một gương mặt chung khiến ta vừa cảm động, vừa cảm phục, vừa xót thương vừa tự hào. Hình ảnh thơ tuy có thiên về nét vẽ hình thể nhưng lại giúp người đọc thấy rõ hơn khí phách hào hùng của những chiến sĩ Tây Tiến - những anh "vệ trọc" nổi tiếng một thời.

    Giữa hai câu trước và hai câu sau lại tạo nên một đối lập khác: đối lập với mắt trừng", "oai hùm" là "mộng", là "mơ", đặc biệt là câu:

    Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

    Thật hào hùng mà cũng thật hào hoa. Chiến tranh tàn khốc rất cần đến - những nét dữ dằn nhưng không thể giết chết những giấc mơ, không thể cướp đi những mộng đẹp. Đó là vẻ đẹp và đó cũng là sức mạnh.

    Trước đây có người cho rằng người chiến sĩ Tây Tiến trong bài thơ chỉ có cái vẻ "yên hùng", khí phách bên ngoài, còn bên trong yếu ớt, tiểu tư sản, mơ mộng viển vông. Nhưng người lính trong Đồng chí của Chính Hữu nhớ "giếng nước gốc đa", nhớ "bạn thân cày", nhớ "gian nhà không"... Người lính trong Nhớ của Hồng Nguyên nhớ đến cháy lòng người vợ trẻ "mòn chân bên cối gạo canh khuya"... thì người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng mơ về Hà Nội để nhớ một dáng hình con gái thì cũng là một điều dễ hiểu. Trong chiến tranh, nếu người lính không còn biết mơ, biết nhớ, không còn mảy may rung động trước một bông hoa đẹp hay sắc đẹp cùa một người con gái thì điều đó quả thật là vô cùng đáng sợ. Họ chiến đấu làm gì? Vì ai? Nếu không phải là để trả lại cho con người, cho dân tộc những giá trị nhân văn cao đẹp như vậy.

    Bài thơ còn dựng lên hai tinh thần đối lập mà thống nhất: bi và hùng, tạo thành chất lãng mạn bi tráng, một khúc độc tấu mang âm hưởng tráng ca.

    Tất cả những gian khổ thử thách, đói rét ốm đau mà nhà thơ đề cập đến trong suốt hai phần đầu bài thơ như một sự chuẩn bị tâm lí cho người đọc để đến khi tác giả nói về cái chết (phần 3) không gây nên cảm giác đột ngột. Tuy không đột ngột và mặc dù quá hiểu chiến tranh là thế - có thể ngã xuống bất cứ lúc nào, song đọc những câu thơ của Quang Dũng, chúng ta vẫn thấy một cảm giác chơi vơi khó gọi tên. Cũng chính những câu thơ ấy đã bất tử hóa cái chết, anh hùng hóa sự hi sinh để nâng đỡ cảm giác buồn đau, hẫng hụt, thành thử bi thương mà không bi lụy, bi ca chứ không phải khốc ca. Chính điều đó làm nên một khúc độc tấu bi tráng rền vang sông núi và lay động lòng người.

    Rải rác biên cương mồ viễn xứ

    Mỗi người lính ngã xuống, những nấm mộ mọc lên. Những nấm mộ rải rác khắp biên cương là dấu tích cùa biết bao nỗi buồn thầm lặng. Nhà thơ nhìn xuyên suốt con đường hành quân của Tây Tiến mà lặng đi đến tê người khi trước mắt anh hiện lên những nấm mộ đồng chí, đồng đội.

    Câu thơ sau nhanh chóng gạt đi những cảm giác bi thương giống như có một lực đẩy vô hình:

    Chiến trường đi chẳng tiếc dời xanh!

    Câu thơ vừa mang dáng dấp cuộc ra đi "nhất khứ hề" của Kinh Kha tráng sĩ vừa mang âm hướng của những cuộc ra đi trong thơ lãng mạn Việt Nam trước cách mạng với những "li khách" cùa Thâm Tâm, "khách chinh phu" của Thế Lữ.. Hơn nữa, các từ Hán - Việt: "biên cương", "viễn xứ", "chiến trường", ... có sức âm vang tạo nên tính cổ điển của hình tượng. Tuy nhiên, chất làng mạn của câu thơ Quang Dũng là chất lãng mạn cách mạng, lãng mạn anh hùng. Quang Dũng đã nói được một điều cốt lõi trong nhân cách người lính: biết hi sinh vẫn dấn thân, ra đi chẳng tiếc đời mình, tuổi thanh xuân đẹp nhất hiến dâng cho lí tưởng. Họ ngã xuống thanh thản, nhẹ nhàng thậm chí nụ cười vẫn nở trên môi. Quang Dũng đã gạt nước mắt để ngẩng cao đầu với niềm tự hào kiêu hãnh.

    Hai câu tiếp theo cũng mang cảm hứng tương tự :

    Áo bào thay chiếu anh về đất

    Sông Mã gầm lên khúc độc hành

    Có người hiểu là lấy áo bào thay cho chiếu, có người lại hiểu là áo bào được thay bằng chiếu. Quang Dũng có lần tâm sự : ngay cả khi nằm xuống, người tử sĩ cũng không có đủ manh chiếu liệm. Nói "áo bào thay chiếu" là cách nói của người lính chúng tôi, cách nói ước lệ của thơ trước đây để an ủi những đồng chí của mình đã ngã xuống giữa rừng". Thế là đã rõ. Không có chiến bào. Thậm chí không có cả chiếu liệm. Nhưng không thể để đau thương, buồn thảm quật ngã. Câu thơ độc đáo của Quang Dũng đã lãng mạn hóa cái chết, làm cho cái chết trở thành một sự ra đi nhẹ nhàng, thanh thản, ung dung với một vẻ đẹp hào hùng, oai phong và sang trọng. Giọng thơ như muốn hạ xuống cung bậc thấp nhất phù hợp với nỗi tiếc thương, nhưng hạ thấp để cuối cùng vút lên với cung bậc dữ dội và hùng tráng:

    Sông Mã gầm lên khúc độc hành

    Những mất mát, đau thương như dồn nén, tích tụ trong tiếng gầm vang rung chuyển cả núi rừng của dòng sông Mã. Những người lính Tây Tiến hi sinh là trở về với thiên nhiên, trở về với đất mẹ và các anh lại hóa thân vào thiên nhiên để hát mãi khúc quân hành.

    Tây Tiến có phảng phất nét buồn đau nhưng đó là nét buồn đau bi tráng. Nằm trong thi pháp chung của nền văn học 1945 - 1975, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lăng mạn, Tây Tiến đã để lại dấu ấn riêng độc đáo. Đó là sự phối hợp hài hòa giữa các mặt đối lập trong các hình tượng thơ. Tây Tiến còn là sự gửi gắm tất cả men say ước nguyện của Quang Dũng vào sự nghiệp cứu nước. Vì thế, Tây Tiến hấp dẫn người đọc bởi thế giới nghệ thuật của cái đẹp, cái cao cả hào hùng - sản phẩm của một bút pháp và cảm hứng lãng mạn.

      bởi Love Linkin'Park 04/07/2019
    Like (0) Báo cáo sai phạm

Nếu bạn hỏi, bạn chỉ thu về một câu trả lời.
Nhưng khi bạn suy nghĩ trả lời, bạn sẽ thu về gấp bội!

Lưu ý: Các trường hợp cố tình spam câu trả lời hoặc bị báo xấu trên 5 lần sẽ bị khóa tài khoản

Gửi câu trả lời Hủy
 
NONE

Các câu hỏi mới

AANETWORK
 

 

YOMEDIA
AANETWORK
OFF