YOMEDIA

Phân tích những câu ca dao thân thân, yêu thương tình nghĩa

Tải về
 
NONE

Mời các em học sinh lớp 10 cùng tham khảo bài văn mẫu Phân tích những câu ca dao thân thân, yêu thương tình nghĩa dưới đây. Với bài văn mẫu này, Học247 hi vọng rằng các em sẽ hiểu hơn về đặc điểm của thể loại ca dao. Mời các em cùng tham khảo nhé! Ngoài ra, để làm phong phú thêm kiến thức cho bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài giảng Ca dao thân thân, yêu thương tình nghĩa.

ADSENSE

1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý

2. Dàn bài chi tiết

a. Mở bài:

- Giới thiệu về đặc trưng thể loại ca dao: Là thể loại trữ tình diễn tả tâm trạng, cảm xúc của con người, gắn với các hình thức sinh hoạt.

- Giới thiệu về chùm ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa là bộ phận phong phú nhất trong kho tàng ca dao trữ tình Việt Nam. Nó phản ánh những cung bậc khác nhau trong đời sống tình cảm của người Việt xưa với những đặc trưng nghệ thuật đặc thù.

b. Thân bài:

* Luận điểm 1: Ca dao than thân - tiếng hát than thân của người phụ nữ

- Chủ thể trữ tình: Là người phụ nữ, được xác định qua đại từ nhân xưng “em”

=> Người phụ nữ tự than cho số phận mình. Cách xưng hô khiêm nhường.

- Các hình ảnh được sử dụng trong bài ca dao:

+ Hình ảnh so sánh, ẩn dụ “tấm lụa đào”:

  • Nghĩa đen: Tấm lụa đào là một mảnh vải đẹp, mềm mại, có giá trị
  • Nghĩa bóng: Gợi liên tưởng đến vẻ đẹp của người phụ nữ, mềm mại nuột nà.

=> Người phụ nữ tự ý thức được vẻ đẹp của mình.

+ Hình ảnh ẩn dụ “chợ”:

  • Nghĩa đen: Chợ là một nơi để trao đổi, giao lưu buôn bán, rất phức tạp
  • Nghĩa bóng: Chợ là sự hiển hiện của một xã hội phức tạp.

=> Người phụ nữ tự than về số phận của mình.

- Từ ngữ:

+ Từ láy “phất phơ”: gợi ra sự bấp bênh, vô định trong cuộc đời người phụ nữ

+ Câu hỏi tu từ: “biết vào tay ai”: Thể hiện những dự cảm đầy lo âu về cuộc đời của người phụ nữ

-> Người phụ nữ tự nhận thức về cuộc đời mình, bất lực trước sự xô đẩy, nổi lênh của cuộc đời

=> Ý nghĩa:

+ Qua bài ca dao than thân của người phụ nữ, tác giả dân gian muốn thể hiện sự trân trọng vẻ đẹp của người phụ nữ đồng thời nói lên niềm cảm thông, chia sẻ với số phận bấp bênh của người phụ nữ.

+ Tố cáo xã hội phong kiến chà đạp quyền sống tự do, được làm chủ của người phụ nữ.

* Luận điểm 2: Ca dao yêu thương tình nghĩa

- Mô típ mở đầu “trèo lên” phổ biến trong ca dao: Trèo lên cây bưởi hái hoa, trèo lên cây gạo cao cao và trong bài ca dao này là trèo lên cây khế nửa ngày

+ Trèo lên cây khế: Hành động bình thường

+ Trèo lên cây khế nửa ngày: hành động bất bình thường.

=> Biến một hành động bình thường trở thành một hành động bất bình thường để diễn tả chính xác trạng thái, tâm trạng của chàng trai chua xót đến ngẩn ngơ.

- Câu hỏi tu từ “Ai làm chua xót lòng này, khế ơi”: Là lời bộc bạch trực tiếp của chàng trai

+ Ai là đại từ phiếm chỉ để chỉ người hoặc một thiết chế phong kiến nào đó như môn đăng hộ đối, sự phân biệt sang hèn,... đã chia cắt tình duyên của chàng trai.

+ Cách gọi “khế ơi” thân mật, gần gũi như những người bạn tri kỉ.

-> Thể hiện sự chua xót, đắng cay, ngậm ngùi của chàng trai.

- Các cặp hình ảnh đối lập: Sao hôm – sao mai, mặt trăng – mặt trời

-> Nói về sự cách trở trong tình yêu của chàng trai và người yêu

-> Các sự vật này dù không bao giờ xuất hiện cùng lúc nhưng chúng luôn đi liền với nhau, không bao giờ cách xa nhau. Khẳng định tình cảm của chàng trai với người mình yêu dù có trắc trở, bị cấm đoán, nhưng hai trái tim luôn hướng về nhau, cùng chung một nhịp đập như những quy luật của vũ trụ kia.

=> Chàng trai mượn quy luật vũ trụ để khẳng định tấm lòng chung thủy, tình yêu bền chặt, khát vọng hạnh phúc chân chính của mình.

- Lời giãi bày trực tiếp của chàng trai: “Mình ơi! Có nhớ ta chăng/ Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời”

+ Mô típ câu hỏi quen thuộc thường gặp trong ca dao: Mình ơi, mình về, mình đi

+ Cách xưng hô “ta – mình”: gần gũi, ngọt ngào, thân thương.

+ Hình ảnh ẩn dụ so sánh “sao Vượt chờ trăng”: thể hiện tấm lòng thủy chung, son sắt không bao giờ thay đổi của chàng trai.

=> Bài ca dao đã thể hiện sự đồng cảm với những tâm sự của chàng trai trong câu chuyện tình duyên lỡ dở; trân trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của chàng trai thôn quê: Thủy chung, sâu sắc. Đồng thời cũng phê phán những thế lực, những rào cản phong kiến chia cắt chuyện tình duyên, ngăn cản tình yêu đôi lứa.

c. Kết bài:

- Khái quát đặc điểm chung của ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa

+ Ca dao than thân thường là lời của người phụ nữ trong xã hội phong kiến khóc thương cho thân phận bị phụ thuộc, bị ép duyên, lấy phải chồng không ra gì, bị phụ bạc… Họ là nạn nhân của chế độ phong kiến.

+ Ca dao yêu thương tình nghĩa thường đề cập đến tình cảm, phẩm chất của người lao động. Đó là tình yêu nam nữ, tình vợ chồng, tình yêu quê hương, đất nước.

- Thể hiện thái độ của bản thân:

+ Thêm hiểu về con người Việt Nam xưa, yêu và trân trọng những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc qua các bài ca dao ấy.

3. Bài văn mẫu

Đề bài: Em hãy viết một bài văn ngắn phân tích những câu ca dao thân thân, yêu thương tình nghĩa.

Gợi ý làm bài:

3.1. Bài văn mẫu số 1

Trong kho tàng ca dao truyền thống của Việt Nam ta có một bộ phận chiếm tỉ lệ lớn chủ đề về than thân của người phụ nữ. Đó là một mảng ca dao hay và giàu ý nghĩa xã hội nhất, các câu mở đầu thường là “Thân em…”, “Em như…”, nghe qua có vẻ giống nhau nhưng khi tìm hiểu thật kĩ chúng ta mới thấy mỗi câu mỗi bài đều có nét riêng cả về nội dung lẫn nghệ thuật.

Bài ca dao đầu tiên là niềm băn khoăn của một người con gái mới lớn khi bước vào tuổi lấy chồng:

“Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

Hình ảnh tấm lụa đào chính là hiện thân cho vẻ đẹp nhan sắc, tuổi xuân phơi phới của người con gái đến tuổi dậy thì, người con gái đã ý thức rất rõ về giá trị của mình. Tuy nhiên tấm lụa đào ấy lại không phải được cất trong rương báu hay vắt trong nhà mà đang được đem bán giữa chợ. Trong thời buổi hôn nhân không được tự do, phụ thuộc cha mẹ gả bán và mai mối đưa đường nên người con gái cảm giác mình đang ở giữa chợ, băn khoăn và sợ rằng không biết chủ của mình sẽ là người như thế nào chứ không phải sợ ế, sợ rẻ.

“Thân em như củ ấu gai

Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen

Không tin bóc vỏ mà xem

Ăn rồi mới biết rằng em ngọt bùi”

Trong bài ca dao này, người con gái lại có tâm trạng lo lắng cho thân phận mình. Dù cô biết rằng phẩm chất của mình thơm ngọt, thảo bùi nhưng vì vẻ ngoài của cô không được hấp dẫn cho lắm nên cô đành phải tự giới thiệu, chào mời và hứa hẹn về phẩm chất của mình. Người con gái muốn được công nhận giá trị của mình nhưng vẫn đầy tự ti, lời mời mọc ấy còn đầy ngượng ngùng.

“Trèo lên cây khế nửa ngày…

Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời”

Bài thơ trên nói về người con gái đã có người yêu, hai người đã tương xứng hợp nhau như mặt trăng mặt trời, sao Mai với sao Hôm. Nhưng người con trai dường như có sự thay lòng đổi dạ, trong khi đó người con gái kiên định một lòng chờ mong. Tiếp theo đó là bài “Khăn thương nhớ ai”, đã nói lên nỗi lòng tương tư thương nhớ bạn tình qua hình ảnh chiếc khăn, ngọn đèn và đôi mắt. Chữ thương chữ nhớ trong ca dao nói chung và trong bài ca dao này nó riêng luôn có những nét mới, dù có lặp đi lặp lại những vẫn không thấy giống nhau. Bài ca dao này cũng có nội dung và nghệ thuật không giống với bất kì bài ca dao nào khác, “thương” và “nhớ” kết hợp với nhau, điệp đi điệp lại mà nghe hoài không chán. Khi người ta đang yêu, mọi vật xung quanh dường như cũng trở nên thân thương và thổn thức cả.

“Ước gì sông rộng một gang

Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi”

Chiếc cầu này chỉ có trong tưởng tượng mà thôi, trong những ước vọng thầm kín giữa hai người yêu nhau, đó là chiếc cầu tình yêu, tình yêu luôn mới mẻ và đầy sáng tạo, nó tạo ra một cây cầu kì diệu. Rồi hình ảnh gừng cay – muối mặn biểu tượng cho tình nghĩa sắt son trước những đắng cay của cuộc đời, “ba vạn sáu nghìn ngày” cũng ý nói sống với nhau cho tới đầu bạc răng long, yêu nhau từng ngày.

Mảng ca dao thân thân yêu thương tình nghĩa đã nuôi dưỡng cho ta những tình cảm sâu sắc đẹp đẽ, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời kho tàng nghệ thuật ngôn từ độc đáo đã kích thích lòng yêu mến và sự sáng tạo của chúng ta.

3.2. Bài văn mẫu số 2

Ca dao là thể loại văn học dân gian diễn tả chi tiết đầy đủ nhất đời sống tư tưởng, tình cảm của nhân dân ta. Ca dao đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau trong cuộc sống, nhưng nổi bật hơn cả là ca dao than thân yêu thương tình nghĩa. Đó là những câu hát thể hiện đời sống tình cảm, tiếng hát cất lên từ cuộc đời còn nhiều đắng cay, khổ cực,…

Trước hết, hai bài ca dao đầu tiên viết về chủ đề than thân. Cả hai bài đều mở đầu bằng motip thân em một motip quen thuộc, thường xuất hiện trong ca dao:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

Và:

Thân em như củ ấu gai

Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen

Ai ơi nếm thử mà xem

Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi.

Đây là tiếng than thân của những người phụ nữ, cho thấy số phận chịu nhiều bất hạnh, bất công. Câu thơ mang đến cảm xúc ngậm ngùi, thương cảm cho số phận bất hạnh của những người con gái. Cùng là tiếng than nhưng ở mỗi bài thơ có những nét riêng, không hòa lẫn. Bài thơ thứ nhất, người con gái tự ví mình với tấm lụa đào – miếng vải cao quý, hiếm và rất đẹp. Cô gái ý thức sâu sắc về vẻ đẹp, giá trị của bản thân. Ấy thế nhưng số phận của cô lại hết sức lênh đênh, bị phụ thuộc phất phơ giữa chợ - thân phận lệ thuộc, bị động, không được tự quyết định cuộc đời mình. Ở bài ca dao thứ hai, câu thơ thứ nhất dường như khiến người đọc chưa thể định hướng gì về vẻ đẹp hay phẩm chất của đối tượng. Câu thơ nói lên đặc điểm của củ ấu gai: bên ngoài xấu xí nhưng bên trong trắng trong, đẹp đẽ, đó cũng chính là vẻ đẹp phẩm chất của người con gái. Dù hình thức bên ngoài không hấp dẫn nhưng sức hấp dẫn nằm ở bên trong, ẩn sâu. Để tìm được vẻ đẹp ấy cần có con mắt tinh tế, tấm lòng thấu hiểu. Câu thơ cuối như một lời mời gọi, lời nói tha thiết, thể hiện mong mỏi của cô gái:

Ai ơi, nếm thử mà xem

Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.

Đằng sau lời đề nghị còn ẩn chứa cả một bi kịch: chính vì vẻ đẹp khuất lấp nên giá trị thực không có nhiều người nhận ra, trở thành vô giá trị trong mắt người khác. Qua đó tác giả dân gian đã khắc họa nỗi đau của người phụ nữ: xã hội không cho người phụ nữ thể hiện giá trị thực của mình. Từ bi kịch của hai cô gái trong bài ca dao, họ đã cất lên tiếng nói tố cáo xã hội: không cho họ quyết định cuộc đời, không cho họ thể hiện giá trị của mình, xã hội đã kiềm tỏa, khống chế người phụ nữ khiến họ không được hưởng hạnh phúc. Đồng thời còn cất lên lời ca ngợi và thể hiện thái độ trân trọng với vẻ đẹp của người phụ nữ.

Những bài ca dao còn lại thuộc chùm ca dao yêu thương tình nghĩa. Nhưng mỗi bài ca dao lại có cách thể hiện rất riêng, rất đặc sắc, biểu hiện những cung bậc tình cảm khác nhau của nhân vật trữ tình. Bài ca dao thứ ba thể hiện tình nghĩa bền vững sắt son dù duyên kiếp không thành. Bài ca dao cũng bắt đầu bằng một motip quen thuộc Trèo lên đây là motip dùng để diễn tả những hành động trái với tự nhiên. Ở đây để diễn tả những cảm xúc xáo trộn, bất an trong tâm hồn của các chàng trai khi lỡ duyên, thất tình. Bài thơ sử dụng hàng loạt câu hỏi tu từ kết hợp với đại từ phiếm chỉ ai, đã xoáy sâu tố cáo các thế lực, đối tượng gây nên nỗi đau khổ của chàng trai, cũng tức là gây nên sự chia cắt tình yêu của đôi lứa, và đó không gì khác chính là những hủ tục, bất công, ngang trái của xã hội phong kiến. Hình ảnh ẩn dụ: mặt trăng – mặt trời; sao hôm – sao mai như một lời khẳng định, nhấn mạnh dù chúng ta không thể nào trùng phùng, không thể đến được với nhau như mặt trăng và mặt trời, như sao hôm và sao mai thế nhưng chúng ta vẫn tương xứng trong vẻ đẹp vĩnh hằng. Và câu thơ cuối, nhân vật trữ tình đã khẳng định lòng thủy chung son sắt của mình: Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời. Bài thơ là lời khẳng định tình cảm thủy chung, son sắt, gắn bó đồng thời lên án, tố cáo những hủ tục đã chia rẽ tình yêu đôi lứa.

Bài ca dao thứ tư lại diễn tả một cung bậc cảm xúc khác nữa của tình yêu chính là nỗi nhớ. Bài có cấu trúc khác so với những bài thơ trên, đó là sự kết hợp giữa thể vãn bốn và thể lục bát, giúp thể hiện rõ hơn tư tưởng, cảm xúc, tình cảm của nhân vật. Tác giả đã kết hợp linh hoạt các biện pháp nghệ thuật: nhân hóa, hoán dụ, câu hỏi tu từ và các biểu tượng khăn, đèn, mắt cho thấy nỗi nhờ thường trực, da diết khắc khoải của cô gái với người mình yêu thương. Nỗi nhớ của nhân vật trữ tình được thể hiện kín đáo qua các vật dụng quen thuộc: khăn, đèn nhưng trạng thái của sự vật không tĩnh tại mà liên tục biến đổi: rơi xuống, vắt lên, chùi nước mắt,… cho thấy nỗi nhớ bồn chồn, khắc khoải của những kẻ đang yêu. Nỗi nhớ mong ấy còn được biểu hiện qua hàng loạt các câu hỏi: Đèn thương nhớ ai; Mắt thương nhớ ai. Dường như nỗi nhớ lúc này đã không thể kìm nén mà bật thành tiếng lòng thổn thức, khắc khoải nhớ thương: đèn không tắt vì nhớ thương, mắt ngủ không yên vì đèn, khăn cũng đang thao thức, đây chính là hình ảnh, biểu hiện cụ thể nhất của tình yêu đôi lứa. Hai câu thơ kết là những âu lo, dự cảm của cô gái:

Đêm qua em những lo phiền

Lo vì một nỗi không yên một bề.

Cô lo lắng, bất an, dự cảm về những bất trắc vì người con gái không được tự quyết định tương lai, hạnh phúc của mình. Những vẫn thơ đã chứng tỏ tình yêu chân thành, tha thiết, khắc khoải của cô gái với người mình yêu.

Bài ca dao thứ năm thể hiện những mong muốn mãnh liệt trong tình yêu:

“Ước gì sông rộng một gang

Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi”.

Câu thơ sử dụng hình ảnh biểu tượng quen thuộc: dòng sông – cây cầu. Dòng sông biểu tượng cho sự cách trở. Cây cầu là biểu tượng cho sự vượt lên cách trở để đến được với nhau trong tình yêu. Điều ước của cô gái thật chân thực mà vô cùng đáng yêu: Sông rộng một gang, dòng sông chỉ xuất hiện trong tưởng tượng, trong mong ước của cô gái. Ước muốn rằng khoảng cách của hai ta, những cách trở của đôi mình được rút ngắn một cách tối đa. Cầu dải yếm – để tương xứng với dòng sông rộng một gang. Cây cầu này là biểu tượng vượt lên những cách trở. Đây cũng là sản phẩm của trí tưởng tượng của cô gái, nói lên ước muốn của cô gái – muốn rút ngắn khoảng cách: khoảng cách về mặt địa lí, khoảng cách của trái tim, vượt qua những ngáng trở để đón nhận tình yêu.

Bài ca dao cuối cùng không thể hiện những cảm xúc mãnh liệt, nỗi nhớ nhung trong tình yêu nữa mà thể hiện tình nghĩa gắn bó thủy chung của vợ chồng. Câu thơ sử dụng hình ảnh biểu tượng quen thuộc: muối – gừng, để nói về nghĩa tình sâu nặng, bền chặt, sự thủy chung, gắn bó của vợ chồng. Ngoài ra tác giả còn sử dụng biện pháp lặp cấu trúc: Muối ba năm muối đang còn mặn, gừng chín tháng gừng hãy còn cay, cho thấy sự bền chặt của nghĩa tình vợ chồng. Bài ca dao là lời khẳng định, ngợi ca nghĩa tình vợ chồng gắn bó thủy chung, sâu nặng.

Các bài ca dao sử dụng các motip quen thuộc: thân em, trèo lên, ước gì kết hợp linh hoạt các biện pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, hoán dụ,… giúp diễn tả tâm tư, tình cảm của nhân vật trữ tình. Ngôn ngữ chọn lọc, giàu giá trị biểu cảm. Hình ảnh giàu giá trị biểu tượng. Nhịp thơ chủ yếu là 2/2/2 êm ái, dịu dàng diễn tả được đa dạng các cung bậc cảm xúc khác nhau của nhân vật.

Những bài ca dao trên đã bộc lộ một cách chân tình và sâu sắc nỗi niềm chua xót, đắng cay trong cuộc sống và tình yêu; tình cảm yêu thương, chung thủy của người bình dân trong xã hội cũ. Qua đó giúp người đọc biết thấu hiểu và cảm thông hơn với những đau khổ mà người lao động bình dân trong xã hội xưa phải gánh chịu, đặc biệt là người phụ nữ và hơn nữa biết trân trọng những vẻ đẹp tâm hồn của họ.

-----Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp-----

 

AANETWORK
 

 

YOMEDIA
AANETWORK
OFF