YOMEDIA

Phân tích giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

Tải về
 
NONE

Tài liệu văn mẫu phân tích giá trị nhân đạo trong Chị em Thúy Kiều, Mã Giám Sinh mua Kiều, Kiều ở lầu Ngưng Bích, Kiều báo ân báo oán trích Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một trong những tài liệu văn mẫu hay và bổ ích mà HỌC247 sưu tầm và  muốn gửi tới quý thầy cô cùng các em, đặc biệt là các em học sinh lớp 9 làm tài liệu tham khảo cũng như là ôn thi. Mong rằng, thông qua tài liệu này, giúp các em thấy được chủ nghĩa nhân đạo bao trùm toàn tác phẩm Truyện Kiều, đặc biệt là ở bốn đoạn trích Chị em Thúy Kiều, Mã Giám Sinh mua Kiều, Kiều ở lầu Ngưng Bích, Kiều báo ân báo oán. Mời quý thầy cô và các em cùng theo dõi!

ATNETWORK
YOMEDIA

1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý

phân tích gái trị nhân đạo trong các đoạn trích chị em Thúy Kiều, Kiều ở lầu Ngưng Bích, Kiều báo ân báo oán, Mã Giám Sinh mua Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

2. Dàn bài chi tiết

a. Mở bài

  • Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, đoạn trích
    • “Truyện Kiều” là kiệt tác của thi hào dân tộc Nguyễn Du, cũng là kiệt tác của nền văn học Việt Nam. “Truyện Kiều” vừa có giá trị lớn về mặt nội dung vừa có giá trị về mặt nghệ thuật.
    • Phân tích các đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, “Mã Giám Sinh mua Kiều”, “Kiều báo ân báo oán” ta thấy được tác giả đã thương xót cho số phận bất hạnh của Thuý Kiều cũng là thương xót cho số phận bất hạnh của biết bao người phụ nữ trong xã hội cũ.

b. Thân bài

b1. Giá trị nhân đạo trong văn học

  • Khái niệm
    • Chủ nghĩa nhân đạo là tư tưởng yêu thương con người, tôn trọng các giá trị của con người.
  • Biểu hiện
    • Biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo:
      • Trân trọng vẻ đẹp của con người
      • Thương xót cho số phận đau thương của con người
      • Tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp lên con người
      • Thấu hiểu ước mơ của con người.

b2. Biểu hiện của giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều

♦ Trân trọng vẻ đẹp của con người

* Vẻ đẹp ngoại hình: Nguyễn Du đã dành nhiều ưu ái khi xây dựng chân dung nhân vật.

  • Với Thúy Vân, Nguyễn Du miêu tả tỉ mỉ, chi tiết để dựng nên bức chân dung  vừa đáng yêu, thiện cảm, vừa trang trọng, quý phái:

“Vân xem trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”

  • Với Thúy Kiều, Nguyễn Du sử dụng bút pháp “tả mây tô trăng”, “điểm nhãn” để dựng nên bức chân dung sắc sảo, hoàn mỹ, không ngôn từ nào diễn tả hết:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà

So về tài sắc lại là phần hơn

Làn thu thủy, nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm,  liễu hờn kém xanh”

  • Cũng như những nhà thơ trung đại khác, Nguyễn Du sử dụng thủ pháp ước lệ để xây dựng chân dung nhân vật, nhưng đối với Nguyễn Du, vẻ đẹp của con người không chỉ sánh ngang với thiên nhiên, mà thậm chí vượt qua thiên nhiên, khiến thiên nhiên phải “thua, nhường”, “ghen, hờn” trước sắc đẹp con người.

* Vẻ đẹp đức hạnh

  • Cả Thúy Kiều và Thúy Vân đều có đức hạnh đoan trang, đúng mực:

“Phong lưu rất mực hồng quần

Xuân xanh xấp xỉ đến tuần cập kê

Êm đềm trướng rủ màn che

Tường đông ong bướm đi về mặc ai”

  • Ở Thúy Kiều sáng lên vẻ đẹp của đạo Hiếu:

“Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh có ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa

Bây giờ gốc tử đã vừa người ôm”

  • Ở Kiều, người đọc còn trân trọng một đức tính thủy chung:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ

Chân trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

  • Ngoài ra, Thúy Kiều còn có tấm lòng trọng ân nghĩa, khi trả ơn Thúc Sinh, nàng nói:

Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng

Tại ai há dám phụ lòng cố nhân”

  • Và một tấm lòng bao dung, độ lượng khi tha thứ cho Hoạn Thư:

“Tha ra thì cũng may đời

Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen

Đã lòng tri quá thì nên”

* Vẻ đẹp tài năng: Tiến bộ hơn các nhà thơ thời Trung Đại, Nguyễn Du còn đề cao người phụ nữ ở phương diện tài năng, ông đã xây dựng một nhân vật Thúy Kiều đa tài, mà tài nào cũng xuất sắc, tuyệt đỉnh:

Thông minh vốn sẵn tính trời

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

Cung thương làu bậc ngũ âm

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương

Khúc nhà tay lựa nên chương

Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân”

→ Trong quan niệm của Nguyễn Du, “chữ tài liền với chữ tai một vần”

⇒ Nói đến cái tài, bên cạnh sự trân trọng còn là một dự cảm bất an cho số phận truân chuyên của con người.

Thương xót cho số phận đau thương của con người

  • Đau xót cho thân phận con người bị chà đạp, khinh rẻ, bị biến thành một món hàng để cân đo đong đếm:

“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà

Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng

Ngại ngùng dợn gió e sương

Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.”

  • Đau xót cho cảnh ngộ côi cút, đơn độc nơi lầu Ngưng Bích “khóa xuân”

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bồn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”

  • Nguyễn Du nhập thân vào nhân vật để cảm nhận hết nỗi đau của nhân vật, tác phẩm viết ra như có “máu chảy trên đầu ngọn bút”, thương cảm cho tương lai bất định, nhiều bất an của Kiều nơi lầu Ngưng Bích:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây  mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

♦ Tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp lên con người

* Nguyễn Du đã sử dụng ngòi bút hiện thực để vạch trần bản chất xấu xa của những kẻ bất nhân trong xã hội xưa, những kẻ “buôn thịt bán người”, kiếm sống trên thân xác của những cô gái vô tội, tiêu biểu là Mã Giám Sinh.

  • Nguyễn Du đã bóc trần cái mác “giám sinh” của họ Mã để cho thấy tính cách vô học, thô thiển của hắn:

“Gần miền có một mụ nào

Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh

Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh

Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần

Quá niên trạc ngoại tứ tuần

Mày rầu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao

Trước thầy sau tớ lao xao

Nhà băng đưa lối rước vào lầu trang

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”

  • Đồng thời ông cũng phẫn nộ trước bản chất con buôn của họ Mã:

“Đắn đo cân sắc cân tài

Ép cung cầm nguyệt thử tài quạt thơ

Mặn nồng một vẻ một ưa,

Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.

Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều

Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”

“Cò kè bớt một thêm hai”

♦ Thấu hiểu ước mơ của con người

* Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã thể hiện một ước mơ cao cả: Ước mơ một cuộc sống công bằng, cái thiện được khuyến khích, nâng niu, cái ác phải bị trừng phạt, phải trả giá. Nhân vật Từ Hải là đấng anh hùng trượng nghĩa, là người thực hiện ước mơ công lý của Nguyễn Du. Chính Từ Hải là người giải thoát Kiều khỏi chốn lầu xanh, cho Kiều cơ hội đổi đời, và cho Kiều cơ hội báo ân, báo oán → Ước mơ tốt đẹp, đáng trân trọng.

+ Trong đoạn trích “Kiều báo ân báo oán” thái độ của Kiều rất rõ ràng:

  • Với người có ân, một mực trân trọng → Báo ân cho Thúc Sinh:

“Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân

Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là”

  • Với kẻ có tội, nghiêm khắc, công bằng, trừng phạt đúng người đúng tội, khoan hồng cho kẻ thực tâm hối cải → Lời nói đanh thép vạch tội Hoạn Thư:

“Dễ dàng là thói hồng nhan

Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”

b3. Đánh giá

  • Về nội dung
    • Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là một chủ nghĩa nhân đạo thấm đẫm yêu thương
    • Nhân vật Thúy Kiều là nhân vật Nguyễn Du gửi gắm tâm sự.
    • Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là một chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ: Coi vẻ đẹp con người cao hơn thiên nhiên; tôn vinh cái tài của con người.
    • Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du hòa vào dòng chảy chủ nghĩa nhân đạo truyền thống của dân tộc, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống, góp một tiếng nói bảo vệ, nâng niu con người đầy giá trị.
  • Về nghệ thuật
    • Giá trị nhân đạo được truyền tải qua những nghệ thuật đặc sắc:
    • Nghệ thuật xây dựng nhân vật (qua lời thoại, qua ngoại hình, qua tính cách) đặc sắc, điêu luyện.
    • Nghệ thuật miêu tả tài tình: bút pháp tả mây tô trăng, phục bút, điểm nhãn, thủ pháp ước lệ…
    • Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ bậc thầy, làm thăng hoa ngôn ngữ dân tộc.

c. Kết bài

  • Cảm nghĩ bản thân về giá trị nhân đạo thông qua “Truyện Kiều” nói chung và qua bốn đọa trích “Chị em Thuý Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, “Mã Giám Sinh mua Kiều”, “Kiều báo ân báo oán” nói riêng.

Bài văn mẫu

Đề bài: Phân tích giá trị nhân đạo của “Truyện Kiều” trong các đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, “Mã Giám Sinh mua Kiều”, “Kiều báo ân báo oán” của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.

Gợi ý làm bài

“Truyện Kiều” là kiệt tác của thi hào dân tộc Nguyễn Du, cũng là kiệt tác của nền văn học Việt Nam. “Truyện Kiều” vừa có giá trị lớn về mặt nội dung vừa có giá trị về mặt nghệ thuật.

Phân tích các đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, “Mã Giám Sinh mua Kiều”, “Kiều báo ân báo oán” ta thấy được tác giả đã thương xót cho số phận bất hạnh của Thuý Kiều cũng là thương xót cho số phận bất hạnh của biết bao người phụ nữ trong xã hội cũ.

Chủ nghĩa nhân đạo là tư tưởng yêu thương con người, tôn trọng các giá trị của con người.

Biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo: Trân trọng vẻ đẹp của con người. Thương xót cho số phận đau thương của con người. Tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp lên con người. Đồng thời, thấu hiểu ước mơ của con người.

Giá trị nhân đạo trong “Truyện Kiều” thể hiện ở tấm lòng thương xót đối với người phụ nữ bất hạnh. Trong đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”, ngòi bút nhân đạo của Nguyễn Du giúp người đọc thấy được tấm lòng của ông dành cho nhân vật Thuý Kiều. Thuý Kiều là người con hiếu thảo. Trước cảnh gia biến, nàng đã bán mình để lấy tiền cứu cha và gia đình khỏi tai hoạ. Bằng bút pháp ước lệ, tác giả làm nổi bật tâm trạng tủi hổ, cảm giác nhục nhã, ê chề của Kiều khi nàng bị coi như một món hàng. Con người Kiều, tài sắc của Kiều đã trở thành món hàng đem ra mua bán. Mụ mối và Mã Giám Sinh “Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ”. Không những thế, chúng còn: “Cò kè bớt một thêm hai”. Nguyễn Du đã cảm thương cho nỗi đau khổ của nàng khi Mã Giám Sinh cân sắc cân tài. Nguyễn Du thấu hiểu tâm trạng Kiều. Đoạn thơ chứa chan tinh thần nhân đạo là ở những chi tiết nội dung ấy.

Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, tác giả đã giúp cho người đọc hiểu được nỗi đau, nỗi nhớ thương, nỗi cô đơn, lo sợ của nàng Kiều. Phải bán mình chuộc cha, trao duyên cho em, Kiều rơi vào tay Mã Giám Sinh và Tú Bà. Kiều không chịu tiếp khách làng chơi nên nàng tìm đến cái chết. Nhưng rồi nàng đã được cứu sống. Tú Bà dỗ ngon ngọt và cho nàng ra ở lầu Ngưng Bích. Thực ra Kiều bị giam lỏng tại nơi đây. Đây chính là điểm khởi đầu cho con đường lưu lạc đầy đau thương, tủi nhục của nàng Kiều. Ngòi bút của Nguyễn Du như nhỏ lệ khi miêu tả cảnh vật thông qua tâm trạng của Thuý Kiều. Giữa thiên nhiên vắng lặng và mênh mông, không một bóng người, Kiều chỉ còn biết:  “Bốn bề bát ngát xa trông”. Một cảm giác cô đơn, buồn tủi và bẽ bàng xâm chiếm tâm hồn nàng. Nàng xót xa cho thân phận, số kiếp mình:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Phải chăng đó chính là nỗi xót xa của tác giả dành cho những con người bất hạnh như Thuý Kiều.

Giá trị nhân đạo thế hiện ở chỗ tác giả ca ngợi vẻ đẹp ngoại hình cũng như vẻ đẹp về phẩm chất của chị em nàng Kiều. Trong đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp của Thuý Vân và Thuý Kiều bằng những lời tuyệt mĩ.

Tả Thuý Vân, ngòi bút của Nguyễn Du thể hiện sự trân trọng:

Vân xem trang trọng khác vời

Hai chữ “trang trọng” nói lên vẻ đẹp cao sang, quý phái của Thuý Vân. Vẻ đẹp trang trọng, đoan trang của người thiếu nữ được so sánh với những thứ cao đẹp trên đời: Trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc.

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da

Tác giả đã sử dụng những hình ảnh thiên nhiên có vẻ đẹp đặc biệt, trong trắng, tinh khiết, rực rỡ để miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân. Khuôn mặt đẹp như trăng rằm. Nụ cười tươi như hoa. Giọng nói trong trẻo thoát ra từ hàm răng ngà ngọc. Làn tóc mềm mại, thướt tha đẹp hơn mây trời. Màu trắng của tuyết đặt bên màu da của Vân vẫn còn thua bởi da của Thuý Vân không chỉ trắng, mịn màng như tuyết mà còn có cả sức sống tràn trề của người con gái bước vào tuổi dậy thì.

Bằng biện pháp nghệ thuật so sánh ẩn dụ, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp trung thực, phúc hậu mà quý phái của người thiếu nữ. Chân dung của Thuý Vân là chân dung mang tính cách số phận, vẻ đẹp của Vân tạo sự êm đềm hoà hợp với xung quanh. “Mây thua”, “tuyết nhường” nên nàng sẽ có cuộc đời suôn sẻ.

Phải là người biết yêu quý cái đẹp, biết trân trọng cái đẹp, Nguyễn Du mới có được sự miêu tả như thế.

-- Để xem được đầy đủ nội dung còn lại, mời quý thầy cô và các em vui lòng đằng nhập vào HỌC247 để dowload tài liệu về máy --

Thấu hiểu ước mơ của con người. Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã thể hiện một ước mơ cao cả: Ước mơ một cuộc sống công bằng, cái thiện được khuyến khích, nâng niu, cái ác phải bị trừng phạt, phải trả giá. Nhân vật Từ Hải là đấng anh hùng trượng nghĩa, là người thực hiện ước mơ công lý của Nguyễn Du. Chính Từ Hải là người giải thoát Kiều khỏi chốn lầu xanh, cho Kiều cơ hội đổi đời, và cho Kiều cơ hội báo ân, báo oán è Ước mơ tốt đẹp, đáng trân trọng.

Trong đoạn trích “Kiều báo ân báo oán” thái độ của Kiều rất rõ ràng:

Với người có ân, một mực trân trọng. Thể hiện qua hành động báo ân cho Thúc Sinh:

“Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân

Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là”

Với kẻ có tội, nghiêm khắc, công bằng, trừng phạt đúng người đúng tội, khoan hồng cho kẻ thực tâm hối cải. Lời nói đanh thép vạch tội Hoạn Thư:

“Dễ dàng là thói hồng nhan

Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”

Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là một chủ nghĩa nhân đạo thấm đẫm yêu thương. Nhân vật Thúy Kiều là nhân vật Nguyễn Du gửi gắm tâm sự. Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là một chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ: Coi vẻ đẹp con người cao hơn thiên nhiên; tôn vinh cái tài của con người. Tấm lòng xót xa, thương cảm cho những con người tài hoa mà bất hạnh. Ca ngợi vẻ đẹp về mặt ngoại hình, tài năng và tâm hồn của những người con gái có sô phận bất hạnh. Thái độ khinh bỉ của tác giả đối với những kẻ buôn người. Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du hòa vào dòng chảy chủ nghĩa nhân đạo truyền thống của dân tộc, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống, góp một tiếng nói bảo vệ, nâng niu con người đầy giá trị. Giá trị nhân đạo được truyền tải qua những nghệ thuật đặc sắc. Nghệ thuật xây dựng nhân vật (qua lời thoại, qua ngoại hình, qua tính cách) đặc sắc, điêu luyện. Nghệ thuật miêu tả tài tình: bút pháp tả mây tô trăng, phục bút, điểm nhãn, thủ pháp ước lệ…Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ bậc thầy, làm thăng hoa ngôn ngữ dân tộc. Qua các đoạn trích, ta thấy nhà thơ có một trái tim nhân đạo bao la. Thật đúng là:

“Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều”

(Tố Hữu)

Trên đây chỉ trích dẫn một phần nội dung văn mẫu: Phân tích giá trị nhân đạo trong "Chị em Thúy Kiều", "Mã Giám Sinh mua Kiều", "Kiều ở lầu Ngưng Bích", "Kiều báo ân báo oán" trích "Truyện Kiều" của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Ngoài ra, các em có thể tham khảo bài giảng Chị em Thúy Kiều, bài giảng Kiều ở lầu Ngưng Bích, bài giảng Mã Giám Sinh mua Kiều, bài giảng Kiều báo ân báo oán nhằm củng cố và ôn luyện lại những kiến thức trọng tâm nhất của các đoạn trích để có đủ cơ sở lý luận, tiến hành viết bài văn. Thông qua những tài liệu này, giúp các em thấy rõ cái tâm, cái tài cũng như là trái tim nhân đạo bao la của Nguyễn Du thể hiện rõ nét trong "Truyện Kiều" nói chung và các đoạn trích nói riêng. Hy vọng những tài liệu này sẽ giúp các em hiểu và có cái nhìn rõ nét hơn về chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du, cũng như là cung cấp cho quý thầy cô và các em nhiều kiến thức hay, bổ ích. Đồng thời, tài liệu còn nhầm hướng dẫn và nâng cao kĩ năng tìm ý, lập dàn bài và viết bài văn hoàn chỉnh cho các em.

-- MOD Ngữ Văn HỌC247 (Tổng hợp và biên soạn)

 

NONE

ERROR:connection to 10.20.1.101:9312 failed (errno=111, msg=Connection refused)
ERROR:connection to 10.20.1.101:9312 failed (errno=111, msg=Connection refused)
AANETWORK
 

 

YOMEDIA
ATNETWORK
ON