Hướng dẫn soạn bài và luyện tập bài Rèn luyện kĩ năng mở bài, kết bài trong văn nghị luận giúp các em học sinh nắm được yêu cầu, chức năng của mở bài, kết bài trong văn nghị luận và luyện tập câu 1, câu 2 và câu 3 trong SGK Ngữ Văn 12. Ngoài ra, để làm phong phú thêm kiến thức cho bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài soạnRèn luyện kĩ năng mở bài, kết bài trong văn nghị luận tóm tắt.
2. Tóm tắt nội dung bài học
2.1. Mở bài
- Cách mở bài thường gặp trong văn nghị luận:
- Mở bài trực tiếp
- Mở bài gián tiếp
- Yêu cầu phần mở bài:
- Thông báo chính xác, ngắn gọn về đề tài
- Hướng người đọc (người nghe) vào đề tài một cách tự nhiên, gợi sự hứng thú với vấn đề được trình bày trong văn bản.
2.2. Kết bài
- Cách kết bài thường gặp trong văn nghị luận:
- Kết bài bằng cách tóm lược
- Kết bài bằng cách bình luận mở rộng và nâng cao
- Yêu cầu của phần kết bài:
- Thông báo về sự kết thúc của việc trình bày đề tài, nêu đánh giá khái quát của người viết về những khía cạnh nổi bật nhất của vấn đề.
- Gợi liên tưởng rộng hơn, sâu sắc hơn
3. Soạn bài Rèn luyện kĩ năng mở bài, kết bài trong văn nghị luận
Câu 1: Mở bài nào phù hợp hơn với yêu cầu đề bài? Giải thích lí do chọn lựa?
Đề bài: Phân rích giá trị nghệ thuật của tình huống truyện trong tác phẩm Vợ nhặt (Kim Lân).
Mở bài 1:
Nhà văn Kim Lân sinh năm 1920, tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn từ năm 1941.Tác phẩm của ông được đăng trên các báo Tiểu thuyết thứ Bảy và Trung Bắc chủ nhật. Ông là tác giả của các tập truyện ngắn: Nên vợ nên chồng(1955),Con chó xấu xí(1962). Truyện ngắn Vợ nhặt lúc đầu có tên gọi Xóm ngụ cư. Tác phẩm được viết ngay sau khi cách mạng thángTám thành công. Sau khi hòa bình lập lại, nhà văn dựa vào cốt truyện cũ và viết lại tác phẩm này. Vợ nhặt được in trong tập Con chó xấu xí. Đây là tác phẩm có tình huống truyện đặc sắc.
→ Mở bài không phù hợp vì vấn đề đặt ra là giá trị nghệ thuật của tình huống truyện nhưng mở bài chỉ đề cập đến tác giả và những tác phẩm chính.
Mở bài 2:
Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công. Cái tên mà tác giả chọn đặt cho truyện ngắn này đã cho thấy một tình huống rất “có vấn đề”của câu chuyện được kể. Từ chuyện “nhặt được vợ” của Tràng – nhân vật chính trong tác phẩm – đúng vào những ngày đói thê thảm của năm Ất Dậu (1945), nhà văn đã thâu tóm trong đó không chỉ cái bi kịch và khát vọng sống của một con người mà còn phản ánh trọn vẹn tấn bi kịch lịch sử và khát vọng sống, xu thế tất yếu của dân tộc. Tình huống “nhặt được vợ” (như nhan đề của truyện ngắn đã nêu rõ) có vai trò quyết định đối với toàn bộ giá trị nghệ thuật và nội dung của tác phẩm.
→ Mở bài không phù hợp vì đề bài chỉ yêu cầu phân tích giá trị nghệ thuật (của tình huống truyện) nhưng người viết nêu về cả giá trị nội dung.
Mở bài 3:
Đọc Vợ nhặt của Kim Lân, cái ấn tượng đậm nét nhất mà truyện ngắn để lại trong tâm trí người đọc là hình ảnh Tràng dắt về “người vợ theo” trong cái cảnh “tối sầm lại vì đói khát”của năm Ất Dậu. Sự lựa chọn đầy táo bạo của con người trong tình huống trớ trêu ấy cũng là sự lựa chọn của cả một cộng đồng: phải sống và làm người, phải vượt lên cái đói và cái chết. Đó cũng là tình huống của lịch sử. Có thể nói, thành công của Vợ nhặt trước hết là thành công của tình huống truyện.
→ Mở bài phù hợp vì đã dẫn dắt tự nhiên, tạo ra sự hấp dẫn, chú ý và phù hợp hơn cả với yêu cầu trình bày đề tài.
Câu 2: Xác định vấn đề nghị luận được nêu trong những mở bài đó? Chỉ ra tính hấp dẫn của các mở bài?
Mở bài 1:
Hỡi đồng bào cả nước,
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Lời bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mĩ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói:
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
(Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn Độc lập)
- Đề tài được triển khai trong văn bản là khẳng định quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam.
- Tính hấp dẫn: Bản Tuyên ngôn Độc lập của nước ta được mở đầu bằng việc trích dẫn lời văn của 2 bản tuyên ngôn của nước Pháp và Mĩ.
Mở bài 2:
Vị trí của Thâm Tâm đối với Thơ mới có cái gì na ná như Thôi Hiệu đối với thơ Đường. Nếu chọn mười nhà thơ Đường lớn nhất, chưa chắc đã có Thôi Hiệu, nhưng nếu chọn mười bài thơ Đường hay nhất không thể không có Hoàng Hạc lâu. Vâng, kể tên mười nhà thơ mới lớn nhất không chắc có Thâm Tâm, nhưng chọn mười bài thơ mới hay nhất khó có thể bỏ qua Tống biệt hành. Thi phẩm là sự thăng hoa đột xuất của ngòi bút Thâm Tâm.
(Chu Văn Sơn, Tống biệt hành, trong Tinh hoa thơ Mới, thấm bình và suy ngẫm)
- Đề tài: Nét đặc sắc của tư tưởng, nghệ thuật bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm.
- Tính hấp dẫn: So sánh vị trí của Thâm Tâm và bài thơ Tống Biệt Hành với vị trí của Thôi Hiệu và bài thơ Hoàng Hạc Lâu → khẳng định giá trị bài thơ Tống biệt hành.
Mở bài 3:
Năm thập kỉ trước đây, khi Nam Cao quyết định bắt tay vào viết Cái lò gạch cũ – tên đầu tiên của Chí Phèo – thì trong văn học hiện thực phê phán, đề tài nông thôn đã qua mùa nở rộ, và những sáng tác thành công về nông dân của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng,… đã tồn tại sừng sững giữa văn đàn. Tác phẩm của một cây bút hồi ấy còn chưa mấy ai biết đến tên tuổi như Nam Cao cầm chắc sẽ bị che khuất, sẽ bị rơi vào cõi lãng quên, nếu tác giả không tìm cho mình được một hướng khai thác riêng cho một đề tài đã thành quen thuộc. Thử thách đó, Nam Cao đã lặng lẽ chấp nhận, và đã vượt qua, với một Chí Phèo thật sự sâu sắc và độc đáo.
(Đỗ Kim Hồi, “Chí Phèo” của Nam Cao)
- Đề tài: Những khám phá độc đáo, sâu sắc của Nam Cao về đề tài người nông dân trong tác phẩm Chí Phèo.
- Tính hấp dẫn: Giới thiệu đề tài nông dân: đề tài quen thuộc trong văn học hiện thực phê phán nhưng tác phẩm Chí Phèo thực sự có giá trị vì đã tìm cho mình một hướng khai thác riêng.
Câu 3: Yêu cầu của phần mở bài
- Thông báo chính xác, ngắn gọn về đề tài.
- Hướng người đọc (người nghe) vào đề tài một cách tự nhiên, gợi sự hứng thú với vấn đề được trình bày trong văn bản.
Câu 4: Cho biết phần kết bài nào phù hợp hơn với vấn đề cần nghị luận? Vì sao?
Đề bài: Suy nghĩ của anh (chị) về nhân vật ông lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân).
Kết bài 1:
Thiên tuỳ bút Người lái đò Sông Đà đã thể hiện rõ sự tài hoa và uyên bác trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân. Đó chính là sự phong phú, tinh tế trong cách biểu hiện thiên nhiên, con người để khắc hoạ rõ nét cái kì vĩ, phi thường của công cuộc chinh phục thiên nhiên. Tác phẩm hấp dẫn ở nhịp văn giàu nhạc điệu, đầy lôi cuốn; cách dùng từ ngữ phong phú, sinh động và đầy bất ngờ. Đặc biệt, hình tượng người lài đò sông Đà đã để lại những ấn tượng thật sâu sắc.
→ Kết bài không phù hợp vì không đi vào vấn đề chính là nhân vật ông lái đò mà chỉ tổng kết những vấn đề liên quan đến tác phẩm.
Kết bài 2:
Hình tượng người lái đò sông Đà, như đã đề cập tới, mang vẻ đẹp vừa mạnh mẽ, kì vĩ vừa bay bổng, phóng túng. Sự sáng tạo, dũng cảm và tài hoa của người lái đò trong cuộc đối mặt với thách thức trên sóng nước là biểu tượng cho những phẩm chất đáng trân trọng nhất ở người lao động - đồng thời là người nghệ sĩ – theo cảm quan đặc biệt của Nguyễn Tuân. Từ tay lái “nở hoa”trên thác ghềnh, sóng nước, một lần nữa, Nguyễn Tuân lại khẳng định rõ bản lĩnh và quan niệm nghệ thuật của mình.
→ Kết bài phù hợp với yêu cầu trình bày đề tài vì đã đánh giá khái quát về ý nghĩa của hình tượng nhân vật ông lái đò, đồng thời gợi suy nghĩ, liên tưởng sâu sắc cho người đọc.
Câu 5: Những phần kết bài này đã đánh giá được vấn đề gì? Cách kết bài đó có khả năng tác động đến người đọc như thế nào?
Kết bài 1:
Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy.
(Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn độc lập)
- Kết bài đã tuyên bố độc lập và khẳng định quyết tâm của toàn dân tộc Việt Nam đem tinh thần, lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững độc lập.
- Kết bài chẳng những làm sống dậy lòng tự hào dân tộc mà còn khơi dậy lòng yêu nước, quyết tâm đánh giặc dữ nước của con người Việt Nam.
Kết bài 2:
Hai đứa trẻ đã thực hiện được điều này. Hơn nữa, dấu ấn của phố huyện ấy luôn khảm trong ta bằng quyền năng kì lạ. Bây giờ và mãi sau này, mỗi khi đứng trước một phố huyện nào thì câu chuyện của Thạch Lam dễ sống dậy trong ta, bằng ánh sáng đẹp, diệu kì.
(Lê Huy Bắc, ấn tượng phố huyện “Hai đứa trẻ” trong Truyện ngắn: lí luận, tác gia và tác phẩm)
- Kết bài đã nêu lên ấn tượng đẹp đẽ, không bao giờ phai nhòa về hình ảnh một phố huyện nghèo trong câu chuyện Hai đức trẻ của Thạch Lam.
- Kết bài gợi lên tình cảm thích thú, yêu mến đối với tác phẩm.
Câu 6: Yêu cầu của phần kết bài
- Thông báo về sự kết thúc của việc trình bày đề tài, nêu đánh giá khái quát của người viết về những khía cạnh nổi bật nhất của vấn đề.
- Gợi liên tưởng rộng hơn, sâu sắc hơn.
⇒ Đáp án đúng là đáp án D.
Để nắm vững được bài học hơn, các em có thể tham khảo thêm bài giảng Rèn luyện kĩ năng mở bài, kết bài trong văn nghị luận.
4. Hướng dẫn luyện tập
Câu 1: So sánh sự giống và khác nhau của hai phần mở bài (SGK) trong bài văn nghị luận về tác phẩm Ông già và biển cả với đề tài: “Cảm nhận của em về số phận con người qua hình tượng ông lão đánh cá Xan-ti-a-gô trong tác phẩm ông già và biển cả của nhà văn Hê-minh-uê”.
- Giống nhau: Cả hai mở bài đều giới thiệu được vấn đề cần nghị luận: số phận con người qua hình tượng ông lão đánh cá Xan-ti-a-gô trong tác phẩm Ông già và biển cả của nhà văn Hê-minh-uê.
- Khác nhau:
- Mở bài 1: Đi từ tác giả, tác phẩm đến việc giới thiệu vấn đề cần nghị luận.Các câu văn đều là câu trần thuật.
- Mở bài 2: Có sự dẫn dắt liên tưởng từ bài thơ Biển đêm của V.Huy-gô. Tác giả dẫn dắt từ vấn đề bi kịch của con người. Mặt khác, tác giả sử dụng nhiều câu hỏi gợi mở, đặc biệt vấn đề chính của bài viết cũng được diễn đạt dưới dạng một câu hỏi tạo sự tò mò.
Câu 2: Mở bài và kết bài trên chưa đạt yêu cầu vì:
- Mở bài chỉ tập trung giới thiệu về tác giả và những tác phẩm chính không có sự đề cập đến vấn đề cần nghị luận của bài viết.
- Kết bài không đánh giá được vấn đề trung tâm của bài viết, có sự lan man sang những chủ đề khác (“bi kịch của Mị”, “diễn biến nội tâm: của các nhân vật).
- Gợi ý cách sửa: Lược bỏ những thông tin thừa, bổ sung ý cần thiết.
- Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn đề tài, gợi hứng thú.
- Kết bài: Nhận định tổng quát, liên tưởng.
- Mở bài: Vợ Chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài. Tác phẩm viết về số phận của Mị và A Phủ- những người dân vùng cao trên hành trình đến với cách mạng. Mị là nhân vật thể hiện rõ bi kịch của người phụ nữ miền núi: Một cô gái xinh đẹp, nết na, sống trong cảnh giàu sang của nhà chồng mà cuộc đời nhiều khổ đau, bất hạnh. Mặc dù bị bóc lột, bị xúc phạm nhân phẩm, bị tước đoạt quyền sống nhưng ở Mị vẫn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt.
- Kết bài: Nhà văn Tô Hoài đã rất khéo léo khi để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc, khó quên về cuộc đời của Mị. Cô chính là hình tượng người phụ nữ vùng cao chịu một số phận đầy nghiệt ngã nhưng vẫn tiềm ẩn một vẻ đẹp tâm hồn đáng quý: khao khát sống, khao khát yêu thương.Những phẩm chất tốt đẹp, những khát vọng chính đáng của nhân vật Mị đã đem đến cho tác phẩm một giá trị nhân đạo sâu sắc.
Câu 3: Một số mở bài và kết bài khác nhau cho các đề bài sau:
Suy nghĩ của anh (chị) về hình tượng "sóng" và khát vọng tình yêu trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh.
Mở bài 1:
Tiếng nói của một trái tim hồn hậu, chân thành luôn lo âu da diết với những khát vọng hạnh phúc và khát vọng yêu đương – đó chính là thơ Xuân Quỳnh. Thơ Xuân Quỳnh thường bộc lộ một hồn thơ hồn nhiên, tươi mới, phong phú, sôi nổi khát vọng. Chị luôn nói đến tận cùng những tình cảm chân thực của trái tim mình – và “Sóng” là một bài thơ điển hình nói lên những tình cảm ấy qua hình tượng “sóng”.
Kết bài 1:
Sóng là một bài thơ tiêu biểu cho giọn thơ của Xuân Quỳnh. Thông qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã giãi bày chân thực khát vọng hạnh phúc của một tâm hồn trung hậu luôn sống cho tình yêu – một tình yêu đẹp, hiện đại, trẻ hóa mang đầy đủ tâm trạng, trạng thái tâm hồn: tình yêu gắn bó với hôn nhân và sự trọn vẹn. Bởi vậy, từ khi ra đời đến nay, “sóng” cùng tác giả của nó luôn nhận được sự yêu quý của độc giả.
Mở bài 2:
Trong thơ ca Việt Nam hiện đại, nếu Xuân Diệu được tuổi trẻ xưng tụng là ông hoàng của thơ tình thì Xuân Quỳnh có thể được coi là nữ hoàng của tình yêu. Đặc sắc của thơ tình Xuân Quỳnh là ở chỗ đến Xuân Quỳnh thơ ca Việt Nam hiện đại mới có được tiếng nói trực tiếp bày tỏ những khát vọng tình yêu của một trái tim phụ nữ mãnh liệt mà chân thành, tự nhiên đến thế.
“Sóng” chính là trái tim dữ dội và dịu êm của Xuân Quỳnh. Sức mạnh của tâm hồn và vẻ đẹp của bài thơ dồn vào những tìm tòi, phát hiện về hình tượng sóng. Từ sóng tới em tạo nên một cặp hình ảnh quấn quýt song hành suốt bài thơ, là cơ sở cho Xuân Quỳnh diễn đạt mọi trạng thái bí ẩn mà mãnh liệt của tình yêu – thứ tình cảm muôn thuở mà không bao giờ xưa cũ của nhân loại.
Kết bài 2:
Bài thơ “sóng” của Xuân Quỳnh từ khi ra đời cho đến nay đã nhận được những lời đánh giá cao của giới nghiên cứu và đồng nghiệp. Phạm Đình Ân cho rằng: “Sóng là nơi tập trung những đặc điểm của thơ Xuân Quỳnh. Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không còn dừng ở tình yêu buổi đầu đơn giản, non nớt, ngọt ngào mà là tình yêu – hạnh phúc, tình yêu gắn với cuộc sống chung mang đậm dấu ấn trách nhiệm (…). Bài thơ như một truyền thuyết về tình yêu đôi lứa”.
Vậy “sóng” chính là một truyền thuyết tâm hồn và tính truyền thuyết ấy sẽ khiến sóng còn vỗ dài lâu trong tâm hồn độc giả.
Mở bài 3:
Trong các nhà thơ Việt Nam hiện đại, Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ của tinhg yêu. Chị viết nhiều, viết hay về tình yêu, trong đó sóng là một bài thơ đặc sắc. Trong bài thơ này, Xuân Quỳnh đã sáng tạo được một hình tượng giàu giá trị thẩm mĩ – hình tượng “sóng” – để diễn tả tâm trạng, tình cảm với nhiều sắc thái phong phú của một trái tim khát khao yêu đương.
Kết bài 3:
Với những biểu hiện vừa đa dạng, vừa nhất quán, hình tượng “sóng” thực sự là cái tôi trữ tình nhập vai của Xuân Quỳnh. Sóng, khi là sự phân thân, khi lại là sự hiện thân của chính tâm hồn tác giả. Qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã chủ động nói lên khát vọng tình yêu của mình và cũng chính là của những người phụ nữ, một cách chân thành và táo bạo. Đó là tình yêu có nét mới mẻ những vẫn có gốc rễ sâu xa trong truyền thống dân tộc, thể hiện ở sự thủy chung, hiến dâng trọn vẹn đến mức quên mình của người phụ nữ.
- Hai đề văn còn lại các em tự làm nhé!