Học247 mời các em học sinh cùng tham khảo bài văn mẫu Thuyết minh đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ dưới đây nhằm giúp các em cảm nhận được những cung bậc và sắc thái khác nhau của nỗi cô đơn, buồn khổ của người chinh phụ. Chúc các em sẽ có được những bài văn thật hay nhé! Ngoài ra, để làm phong phú thêm kiến thức cho bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài giảng Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.
1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý
2. Dàn bài chi tiết
a. Mở bài:
- Giới thiệu đoạn trích.
b. Thân bài:
* Tác giả, dịch giả:
- Tác giả Đặng Trần Côn
- Dịch giả Đoàn Thị Điểm, Phan Huy Ích
b. Tác phẩm:
* Thể loại:
- Nguyên tác được viết theo thể trường đoản cú, bao gồm tổng thể 476 câu thơ
- Bản dịch chữ Nôm được dịch giả dùng thể ngâm khúc. Kết hợp với thể thơ song thất lục bát.
* Hoàn cảnh sáng tác:
- Chinh phụ ngâm được sáng tác vào đời đầu của vua Lê Hiển Tông, trong bối cảnh có nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân liên tục xảy ra xung quanh kinh thành Thăng Long, dẫn tới triều đình phải cất quân đánh dẹp. Nhiều thanh niên trai tráng lần lượt phải lên đường tòng quân, bỏ lại vợ dại, con thơ ở nhà trong nỗi sầu muộn, thương nhớ mòn mỏi.
* Nội dung:
- Sự oán ghét chiến tranh phi nghĩa.
- Diễn tả tâm trạng khao khát tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của con người, là nét mới trong cảm hứng nhân đạo văn học thế kỷ XVIII.
* Mạch cảm xúc:
- Phần 1: Thế giới tâm trạng của người chinh phụ thể hiện qua những hành động lặp đi lặp lại, thể hiện sự chờ mong khắc khoải, bồn chồn và nỗi cô đơn trống vắng đến tội nghiệp của người chinh phụ. Không chỉ diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình bằng những hành động vô thức lặp lại mà Đặng Trần Côn còn diễn tả thông qua hình ảnh ngọn đèn vô tri vô giác, người bạn duy nhất để người chinh phụ chia sẻ nỗi buồn rầu bi thiết của mình.
- Phần 2: Tiếng gà "eo óc", cành hòe phất phơ yếu đuối lại càng có giá trị tương hỗ diễn tả cái cảnh triền miên, khắc khoải của chinh phụ trong cô đơn lẻ loi.
- Phần 3: Người chinh phụ gắng gượng vượt qua nỗi cô đơn nỗi nhớ bằng nhiều hành động khác nhau nhưng dường như nỗi nhớ, nỗi cô đơn lại càng trở nên mãnh liệt. (Đốt hương, trang điểm, gảy đàn).
- Phần 4: Nỗi cô đơn trống trải của người chinh phụ tiếp tục được gửi gắm thông qua các hình ảnh thiên nhiên.
* Đặc sắc nghệ thuật:
- Thành công trong việc miêu tả, bộc lộ tâm trạng nhân vật, biến thế giới vô hình trở thành vô hình thông qua việc miêu tả các hành động, dáng điệu, cử chỉ của nhân vật và thiên nhiên bên ngoài.
- Sự uyển chuyển trong việc sử dụng thể thơ song thất lục bát có tính nhạc điệu, cùng với hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm có ý nghĩa rất lớn trong việc thể hiện thế giới nội tâm của nhân vật.
c. Kết bài:
- Tóm tắt lại nội dung, nghệ thuật tiêu biểu.
3. Bài văn mẫu
Đề bài: Em hãy viết bài văn Thuyết minh đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.
GỢI Ý LÀM BÀI
3.1. Bài văn mẫu số 1
Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trích trong bài Chinh phụ ngâm, nguyên tác chữ Hán là của tác giả Đặng Trần Côn, về dịch giả thì có nhiều quan điểm tranh cãi tuy nhiên đến nay người ta đã thống nhất cho rằng đó là Đoàn Thị Điểm. Đây là một trong những tác phẩm văn học xuất sắc nhất của thế kỷ XVIII, cùng mang một nội dung nhân đạo mới mẻ đó là không chỉ đồng cảm thương xót với số phận bất hạnh của con người mà còn hướng tới thể hiện sự trân trọng ngợi ca trước khát vọng hạnh phúc chính đáng của con người, đặc biệt là người phụ nữ dưới chế độ phong kiến có nhiều bất công.
Về tác giả, Đặng Trần Côn có thể được xem là một trong những tác giả bí ẩn nhất của nền văn học Việt Nam, những tài liệu và thông tin về ông cực kỳ ít và dường như không có ghi chép gì đáng kể. Chỉ biết rằng, Đặng Trần Côn sống vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVIII, quê ở làng Nhân Mục, thuộc huyện Thanh Trì (nay là Thanh Xuân, Hà Nội). Tương truyền ông là người thông minh hiếu học, đã từng thi đỗ Hương Cống. Sự nghiệp sáng tác ngoài Chinh Phụ Ngâm là tác phẩm nổi tiếng, xuất sắc nhất thì còn có các tác phẩm thơ phú bằng chữ Hán như Tiêu Tương bát cảnh, Tùng bách thuyết thoại, Bích câu kỳ ngộ,...
Về dịch giả, thì Chinh Phụ ngâm có tổng cộng bốn bản dịch của các tác giả khác nhau trong đó bản dịch được khắc in hiện nay là bản dịch được lưu truyền rộng rãi và phổ biến nhất. Và đến nay người ta vẫn còn nhiều tranh cãi về việc bản dịch hiện hành này là của Đoàn Thị Điểm hay Phan Huy Ích. Nói về Đoàn Thị Điểm, bà được đánh giá là người phụ nữ có sắc đẹp và tài văn ưu tú nhất trong số các nữ sĩ thời trung đại. Bà sinh năm 1705, mất năm 1748, hiệu là Hồng Hà nữ sĩ, quê quán ở Văn Giang, nay thuộc tỉnh Hưng Yên, là người nổi tiếng thông minh và xinh đẹp. Tuy nhiên đường tình duyên của bà lại khá lận đận, lấy chồng muộn vào tuổi 37, chồng là tiến sĩ Nguyễn Kiều, và ngay sau cưới chồng lại phải đi sứ xa, có thể điều đó khiến Đoàn Thị Điểm rất sầu muộn và có mối đồng cảm sâu sắc với người chinh phụ trong bài Chinh phụ ngâm, nên đã tiến hành dịch bài thơ này. Về giả thuyết dịch giả là Phan Huy Ích, thì ông sinh vào năm 1750 và mất năm 1822, tự là Dự An, quê gốc ở Hà Tĩnh, sau đó chuyển sang sinh sống ở Quốc Oai, nay thuộc Hà nội, đỗ tiến sĩ năm 26 tuổi.
Tác phẩm Chinh phụ ngâm, nguyên tác được viết theo thể trường đoản cú, bao gồm tổng thể 476 câu thơ dài ngắn không đều nhau. Bản dịch chữ Nôm được dịch giả dùng thể ngâm khúc, thường diễn tả những tâm tư, tình cảm của con người với những lời than vãn, ai oán, đau khổ. Kết hợp với thể thơ song thất lục bát của dân tộc, gồm hai câu 7 chữ, một câu 6 chữ, một câu 8 chữ, làm cho bài thơ thêm giàu nhạc điệu, uyển chuyển, đậm đà bản sắc dân tộc.
Chinh phụ ngâm được sáng tác vào đời đầu của vua Lê Hiển Tông, trong bối cảnh có nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân liên tục xảy ra xung quanh kinh thành Thăng Long, dẫn tới triều đình phải cất quân đánh dẹp. Nhiều thanh niên trai tráng lần lượt phải lên đường tòng quân, bỏ lại vợ dại, con thơ ở nhà trong nỗi sầu muộn, thương nhớ mòn mỏi. Cảm động và đồng cảm trước tình cảnh của những người vợ lính xa nhà, Đặng Trần Côn đã sáng tác ra bài thơ Chinh phụ ngâm để bày tỏ sự thấu hiểu, sẻ chia với hoàn cảnh của những người phụ nữ này. Nội dung chính của tác phẩm chủ yếu năm ở hai điểm thứ nhất là sự oán ghét chiến tranh phi nghĩa, nội dung thứ hai đóng vai trò chủ đề ấy là diễn tả tâm trạng khao khát tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của con người, là nét mới trong cảm hứng nhân đạo văn học thế kỷ XVIII.
Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ nằm từ câu thứ 193 đến câu 216 của bản diễn Nôm. Bố cục đoạn trích có thể được chia làm ba phần, phần đầu từ "Dạo hiên vắng...bóng người khá thương" diễn tả nỗi bồn chồn, ngóng trông của người chinh phụ, phần thứ hai tiếp theo đến "...tựa miền biển xa", cảm giác về thời gian chờ đợi mòn mỏi của chinh phụ, phần thứ ba tiếp theo đến "Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng" là sự gắng gượng để thoát khỏi nỗi cô đơn tột cùng của người chinh phụ, phần còn lại của đoạn trích là niềm mong ước được gửi tấm lòng thương nhớ đến chồng của người chinh phụ. Như vậy ta có thẻ tổng kết được rằng chủ đề chính của đoạn trích chính là những cung bậc cảm xúc cô đơn khác nhau của người chinh phụ luôn có khao khát được sống cuộc sống hạnh phúc, yên ấm bên chồng con. Và điều ấy được thể hiện một cách uyển chuyển qua từng phần của đoạn trích.
Trong đoạn đầu:
"Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng
Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu chẳng nói nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương"
Thế giới tâm trạng của người chinh phụ thể hiện qua những hành động lặp đi lặp lại, hết đi qua đi lại bên hiên vắng với bước chân nặng nề, chán nản, thì lại chuyển sang ngồi xuống ngẩn ngơ bên rèm, bộc lộ sự thấp thỏm bất an, bồi hồi trong lòng của người chinh phụ. Chán đứng, chán ngồi, người chinh phụ lại hết buông rèm, rồi lại vén rèm lên, hết ngóng ra ngoài lại thẫn thờ quay vào nhìn chăm chăm vào ngọn đèn mờ, điều đó thể hiện sự chờ mong khắc khoải, bồn chồn và nỗi cô đơn trống vắng đến tội nghiệp của người chinh phụ. Không chỉ diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình bằng những hành động vô thức lặp lại mà Đặng Trần Côn còn diễn tả thông qua ngoại cảnh xung quanh, trong đó hình ảnh ngọn đèn vô tri vô giác lại trở thành người bạn duy nhất để người chinh phụ chia sẻ nỗi buồn rầu bi thiết của mình. Nhưng chính vì ngọn đèn là vô tri vô giác, nên bộc lộ tâm tư chỉ ở một phía người chinh phụ, còn ngọn đèn chong ấy thì mãi mãi không thể vỗ về, an ủi người chinh phụ, dẫn tới sự cô đơn càng trở nên rõ ràng hơn cả.
Đoạn tiếp theo:
"Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa"
Tiếng gà "eo óc" là một từ láy tượng thanh rất hay diễn tả thật đạt cái cảnh vắng vẻ quạnh quẽ sớm hôm đầy thê lương, thêm vào đó cành hòe phất phơ yếu đuối lại càng có giá trị tương hỗ diễn tả cái cảnh triền miên, khắc khoải của chinh phụ trong cô đơn lẻ loi. Làm nổi bật cảnh tượng cô đơn một bóng, người chinh phụ lại càng thấm thía hơn bao giờ hết cảnh thời gian trôi qua một cách chậm rãi, vô vị, cùng với mối sầu khổ trải dài mênh mông vô tận trong tâm khảm.
Đến đoạn thứ 3 khi người chinh phụ gắng gượng vượt qua nỗi cô đơn nỗi nhớ bằng nhiều hành động khác nhau nhưng dường như nỗi nhớ, nỗi cô đơn lại càng trở nên mãnh liệt.
"Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng"
Đốt hương để tìm sự thanh thản, tìm sự che chở trong thế giới tâm linh thế nhưng bản thân nàng lại càng chìm đắm hơn vào trong nỗi sầu "mê mải". Soi chỉnh dung nhan, tìm vui thú trong việc điểm trang, thế nhưng lại phải đối diện với sự cô đơn, càng thấm thía hơn cái cảnh ngộ của bản thân mình khi nhận thấy dung nhan ngày càng một tiều tụy, tuổi xuân ngày càng vơi bớt. Khi tìm đến ngón đàn giải khuây thì chinh phụ lại phải đối mặt với nỗi lo lắng khi sợ đàn đứt dây, mang đến điềm ý xấu.
Đoạn cuối cùng nỗi cô đơn trống trải của người chinh phụ tiếp tục được gửi gắm thông qua các hình ảnh thiên nhiên.
"Lòng này gửi gió đông có tiện
...
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun"
Đoạn thơ tái hiện lại không gian khoảng cách chia xa giữa người chinh phụ và người chinh phụ, thông qua từ "non Yên", ý chỉ nơi người chồng đang tranh đấu và thông qua cả hai câu thơ "Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời/Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu", diễn tả khoảng cách xa xăm ngàn dặm, khó có thể vượt qua. Tuy nhiên với nỗi nhớ thương đong đầy, người chinh phụ đã tìm ra được một giải pháp rất hay ấy là gửi nỗi nhớ "nghìn vàng" cho cơn gió Đông mang theo ra tiền tuyến. Rồi cuối cùng lại quay trở lại đối mặt với bi kịch cô đơn quạnh quẽ của mình.
Về đặc sắc nghệ thuật ta có thể thấy trong đoạn trích này, đặc sắc nghệ thuật chủ yếu là sự thành công trong việc miêu tả, bộc lộ tâm trạng nhân vật, biến thế giới vô hình trở thành vô hình thông qua việc miêu tả các hành động, dáng điệu, cử chỉ của nhân vật và thiên nhiên bên ngoài. Thứ hai nữa là sự uyển chuyển trong việc sử dụng thể thơ song thất lục bát có tính nhạc điệu, cùng với hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm có ý nghĩa rất lớn trong việc thể hiện thế giới nội tâm của nhân vật.
Tóm lại Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ nói riêng và Chinh phụ ngâm nói riêng là một tác phẩm hay và nổi bật trong nền văn học trung đại của Việt Nam thế kỷ XVIII, với những giá trị nhân văn, nhân đạo vô cùng cao cả, tốt đẹp dần hướng đến đề cao, ca ngợi ước mơ, khát vọng hạnh phúc của con người cũng như người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Ngoài ra nó còn là tác phẩm gián tiếp tố cáo tội ác của những cuộc chiến tranh phi nghĩa liên miên và sự bất lực của triều đình trong việc an dân.
3.2. Bài văn mẫu số 2
Chinh phụ ngâm nguyên văn bằng chữ Hán, do Đặng Trần Côn sáng tác. Bản Nôm hiện hành, nhiều ý kiến thống nhất, là của dịch giả Đoàn Thị Điểm. Trước cảnh chiến tranh liên miên đầu thế kỉ XVIII, cảm động trước thời thế, Đặng Trần Côn đã viết Chinh phụ ngâm. Qua nỗi niềm và tâm trạng cô đơn, tủi hờn của người chinh phụ, tác phẩm đã nói lên sự oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là thể hiện tâm trạng khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi. Bản dịch đã thể hiện tài năng của tác giả và dịch giả trong việc thể hiện những trạng thái tâm lí vô cùng tinh tế và phức tạp của người vợ nhớ chồng.
Về bản dịch Chinh phụ ngâm hiện có tất thảy bảy bản dịch và phỏng dịch bằng các thể song thất lục bát (bốn bản) và lục bát (ba bản) của các dịch giả : Đoàn Thị Điểm, Phan Huy Ích, Bạch Liên Am Nguyễn và hai tác giả khuyết danh, nhưng chưa biết bản dịch nào của ai. Riêng bản dịch thành công nhất và được phổ biến rộng rãi xưa nay, thể song thất lục bát, 412 câu (bản in chữ Nôm cũ hiện còn (1902, AB26), hoặc 408 câu (một bản khác lưu tại thư viện Pa-ri) có người cho là của Đoàn Thị Điểm, có người cho là của Phan Huy Ích.
So bản dịch của bà với bản chữ nho thì thấy văn dịch rất sát nghĩa nguyên văn mà lời văn êm đềm, ảo não, rõ ra giọng một người đàn bà buồn bã, nhưng có vẻ thê lương hơn là vẻ đau đớn, không đến nỗi réo rắt, sầu khổ như giọng văn cung oán, thật là lời văn hợp cảnh vật. Bản dịch viết theo thể "song thất". Có nhiều đoạn đặt theo lối liên hoàn, những chữ cuối câu trên láy lại làm chữ đầu câu dưới, cứ thế đặt dài tới mấy câu, thật hợp với tình buồn liên miên không dứt của người chinh phụ.
Người chinh phụ vốn dòng dõi trâm anh quyền quý, nàng tiễn chồng ra trận với mong muốn người chồng sẽ lập công danh nơi yên ngựa và trở về trong cảnh vinh hoa. Thấm nỗi cô đơn lẻ loi, nàng nhận ra tuổi xuân của mình đang đi qua và hạnh phúc lứa đôi ngày càng xa vời. Người chinh phụ rơi vào tâm trạng cô đơn cùng cực. Khúc ngâm thể hiện tâm trạng cô đơn ấy của người chinh phụ. Đoạn trích miêu tả tâm trạng lẻ loi của người chinh phụ trong cảnh chờ chồng.
Đầu đời Cảnh Hưng, chiến tranh xảy ra liên miên, hết Lê Mạc đánh nhau đến Trịnh Nguyễn kéo dài cuộc phân tranh, đất nước chia làm hai nửa dưới cái ngai vàng mục ruỗng, rồi khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi. Nhân dân sống trong cảnh nồi da nấu thịt, loạn li chinh chiến, cha mẹ xa con, vợ xa chồng. Văn học thời kì này tập trung phản ánh bản chất thối nát, bộ mặt tàn bạo của chế độ phong kiến và nỗi đau khổ của con người những nạn nhân của chế độ xã hội ấy. Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra đời đã nhận được sự đồng cảm của rất nhiều nho sĩ. Nhiều bản dịch Chinh phụ ngâm ra đời, trong đó bản dịch được cho là của Đoàn Thị Điểm là bản dịch thành công hơn cả vì dịch giả đã gặp được ở đó sự đồng cảm sâu sắc.
Hình tượng nổi bật của Chinh phụ ngâm là hình tượng người chinh phụ héo mòn trong trông ngóng chờ đợi. Người chinh phụ hiện lên trong khúc ngâm với ước vọng công hầu và khát khao hạnh phúc lứa đôi. Được nuôi dưỡng trong nền giáo dục Nho gia, người phụ nữ quý tộc phong kiến cũng từng mong ước, tự hào về hình ảnh một người chồng dũng mãnh:
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt
Xếp bút nghiên theo việc đao cung
Thành liền mong tiến bệ rồng
Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
Thế nhưng sau những ngày mỏi mòn chờ chồng trong tuyệt vọng, nàng rơi vào tâm trạng cô đơn, tuyệt vọng và cất lời oán trách. Qua tâm trạng của người thiếu phụ, khúc ngâm là tiếng nói oán trách chiến tranh phong kiến đã giày xéo lên hạnh phúc lứa đôi.
Chinh phụ ngâm là một tác phẩm trữ tình, từ đầu đến cuối tác phẩm vẫn chỉ là tâm trạng của nhân vật trữ tình người chinh phụ. Khúc ngâm được phát triển theo mạch tâm trạng và nỗi nhớ nhung của người chinh phụ. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đã bao quát được những trạng thái tâm trạng của người chinh phụ. Nội tâm đầy biến động được diễn tả qua những từ ngữ chỉ ngoại hình, tả hành động, tả việc làm của người chinh phụ. Người thiếu phụ trong Khuê oán của Vương Xương Linh vẫn vô tư trang điểm má hồng để lên lầu biếc ngắm cảnh xuân, chỉ khi ngắm màu dương liễu mới bừng tỉnh và nhận ra cảnh ngộ cô đơn của mình ; còn người chinh phụ này luôn chìm đắm trong nỗi cô đơn. Sự trông đợi mỏi mòn và vô vọng đã khiến nàng trễ nải cả việc điểm phấn tô son, công việc quan trọng nhất của người phụ nữ nơi gác tía lầu son như nàng:
Trâm cài xiêm thắt thẹn thùng,
Lệch vòng tóc rối, lỏng vòng lưng eo.
Sự chờ đợi vô vọng đã khiến nàng tê liệt cả tinh thần. Với việc miêu tả dáng vẻ bề ngoài, tác giả đã lột tả được trạng thái tâm lí phức tạp trong nội tâm của người thiếu phụ. Người thiếu phụ hiện lên với vẻ mệt mỏi và buông xuôi, nỗi cô đơn đã giày vò cả tâm thần và thể xác của người thiếu phụ khiến nàng nhạt phấn phai hương. Nỗi cô đơn bao trùm cả lên không gian và thời gian, ngày và đêm. Trong và ngoài căn phòng đều tràn ngập nỗi cô đơn. Chỉ có người thiếu phụ đối diện ngọn đèn, tình cảnh lẻ loi càng hiện rõ hơn. Cái vẻ lẻ loi tội nghiệp ấy hiện lên thật rõ ràng với hình ảnh: Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Giữa cái không gian tĩnh mịch của đêm, tiếng bước chân chậm rãi như gieo vào lòng người cái âm thanh lẻ loi cô độc. Puskin trên con đường mùa đông vắng vẻ, cô đơn hơn bởi tiếng lục lạc đơn điệu thì người chinh phụ cô đơn hơn khi nghe tiếng bước chân của mình. Nỗi đau đớn âm thầm nhưng quá lớn ấy khiến nàng khao khát có sự đồng cảm. Nhưng chỉ có ngọn đèn đối diện với nàng mà thôi. Liệu ngọn đèn có thấu hiểu được không hay sức nặng của nỗi cô đơn, của sự nhung nhớ lại dồn cả lên nàng. Ngọn đèn chỉ là vật vô tri vô giác, "có biết dường bằng chẳng biết":
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Cảnh vật không san sẻ mà cộng hưởng cùng nỗi sầu của người chinh phụ khiến nàng đau càng đau, sầu càng sầu. Nỗi chờ đợi ngày càng vô vọng. Dường như người thiếu phụ thức trắng cả năm canh và bị nỗi nhớ nhung giày vò:
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Dịch giả đã sử dụng rất hợp lí những từ ngữ thuần Việt với những chữ như "eo óc", "phất phơ", những từ ngữ ấy dùng để tả cảnh nhưng đã chuyển tải được nỗi cô độc, buồn sầu của người thiếu phụ. Nó vừa gợi hình ảnh, vừa gợi tâm trạng. Dáng hoè phất qua bên nọ bên kia gợi nên hình ảnh người chinh phụ vật vã trong nhớ nhung giữa đêm khuya lẻ loi. Đếm từng khắc thời gian trôi đi chậm chạp, nhìn xung quanh thì bốn phía chỉ là cây hòe rủ bóng, nàng chìm ngập trong nỗi cô đơn. Khi chờ đợi bao giờ thời gian cũng rất dài. Thuý Kiều trong tâm trạng đợi chờ Kim Trọng :
Sầu đong càng lắc càng đầy,
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê!
Giống như tâm trạng người chinh phụ chờ chồng:
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Thời gian cứ dài dằng dặc và không gian thì mênh mông vô tận, người chinh phụ nhỏ bé và đơn độc trước không gian và thời gian. Biết nỗi đợi chờ là vô vọng, nàng đã cố gắng để đưa mình ra khỏi nỗi cô đơn. Gắng gượng điểm phấn tô son, dạo đàn nhưng càng cố gắng vùng vẫy càng lún sâu hơn vào sự tuyệt vọng. Chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau, cũng nhìn thấy cảnh lẻ loi đơn chiếc. Soi gương thì nước mắt đầm đìa bởi nàng phải đối diện với gương mặt thanh xuân đang mỏi mòn dần và thì xuân sắc đang phũ phàng trôi qua. Khúc đàn loan phượng thì gợi nhớ cảnh chồng vợ chia lìa.
Nỗi đau đớn, tủi hờn của người chinh phụ thể hiện nỗi khao khát hạnh phúc lứa đôi chân chính. Với nỗi niềm cảm thông sâu sắc, tác giả và dịch giả đã thể hiện rất tinh tế và thành công nhưng trạng thái tâm lí phức tạp của người thiếu phụ, qua đó thể hiện thái độ của mình trước những cuộc chiến tranh, binh biến liên miên dưới chế độ phong kiến thế kỉ XVIII. Tuy tác phẩm không nói rõ tính chất cuộc chiến tranh mà người chinh phu tham gia, song dựa trên những điều kiện lịch sử khi tác phẩm ra đời, có thể nhận thấy, đó không phải là cuộc chiến tranh vệ quốc, mà là cuộc chiến giành giật quyền lực của các tập đoàn phong kiến, những cuộc chiến phi nghĩa.
Dịch Chinh phụ ngâm, dịch giả đã chọn thể thơ song thất lục bát, một thể thơ dân tộc có khả năng lớn trong việc thể hiện tâm trạng của nhân vật, nhất là tâm trạng buồn đau, sầu muộn. Dịch giả đã dịch rất thanh thoát nội dung của nguyên tắc, thể hiện chân thực nỗi buồn của người thiếu phụ phương Đông, mãnh liệt, da diết nhưng kín đáo. Chinh phụ ngâm đã đánh dấu một bước tiến vượt bậc của ngôn ngữ văn học dân tộc. Với tác phẩm này, tiếng Việt đã chứng minh khả năng diễn tả tư tưởng tình cảm một cách sâu sắc, tinh tế. Với tấm lòng thương yêu và sự cảm thông sâu sắc với những khát khao hạnh phúc chính đáng của người thiếu phụ, tác giả và dịch giả cất lên tiếng kêu nhân đạo, tiếng kêu phản đối chiến tranh phi nghĩa. Thái độ phản chiến tuy không bộc lộ trực tiếp song lại rất mạnh mẽ. Chiến tranh đã cướp đi của con người hạnh phúc và tuổi trẻ, thậm chí cả mạng sống. Vì một cuộc chiến, có biết bao người vợ phải xa chồng, phải giam mình trong nỗi cô đơn, buồn tủi như người chinh phụ kia. Có người đón chồng trở về khi tóc đã pha sương, nhưng đó còn là may mắn. Có người đau xót đón tin chồng không trở về sau những ngày mỏi mòn trông đợi.
"Vì ai gây dựng cho nên nỗi này" là lời oán thán nặng nề nhất trong Chinh phụ ngâm, lời ai oán không mạnh mẽ nhưng uất ức và oán trách. Đó là một trong những giá trị của Chinh phụ ngâm. Nhưng cao hơn cả, tác phẩm là sự tiếp nối xuất sắc cảm hứng nhân đạo của nền văn học dân tộc, một lần nữa, những khao khát hạnh phúc chính đáng của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến lại được ủng hộ. Đề tài về thân phận người phụ nữ lại được góp thêm một tiếng nói mới đầy sức mạnh nhân văn.
-----Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp-----