YOMEDIA

Phân tích tác phẩm Thư lại dụ Vương Thông của Nguyễn Trãi

Tải về
 
NONE

Dưới đây là tài liệu văn mẫu Phân tích tác phẩm Thư lại dụ Vương Thông của Nguyễn Trãi được HOC247 tổng hợp nhằm giúp các em nắm được hoàn cảnh ra đời, bố cục và nội dung của bức thư. Đồng thời, rèn luyện kĩ năng viết bài phân tích tác phẩm văn học. Để có thêm những hiểu biết lí thú về văn bản, mời các em cùng tham khảo thêm bài giảng Thư lại dụ Vương Thông - CTST.

ATNETWORK

1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý

2. Dàn bài chi tiết

2.1. Mở bài

- Giới thiệu Nguyễn Trãi và tác phẩm Thư lại dụ Vương Thông:

+ Trong quá trình phò tá chủ soái Lê Lợi lãnh đạo nghĩa quân Lam Sơn đánh đuổi giặc Minh, lập nên nghiệp lớn, nhiều lần mưu sĩ Nguyễn Trãi đã soạn thảo thư từ gửi cho tướng giặc để khiêu khích hoặc dụ hàng, nhằm thực hiện chiến lược “mưu phạt tâm công”.

+ Thư lại dụ Vương Thông là bức số 35 có nội dung và nghệ thuật hay nhất, sau này được in trong Quân trung từ mệnh tập. Với lập luận chặt chẽ, sắc bén, qua bức thư này, Nguyễn Trãi đã thể hiện ý chí quyết chiến quyết thắng và tinh thần yêu chuộng hòa bình của quân dân Đại Việt.

2.2. Thân bài

a. Hoàn cảnh ra đời của bức thư

- Nghĩa quân Lam Sơn vây hãm thành Đông Quan, đẩy giặc Minh vào tình thế vô cùng khốn đốn.

- Nguyễn Trãi viết bức thư này vào khoảng tháng 2 - 1427 thì đến tháng 10 cùng năm, sau khi tướng giặc Liễu Thăng bị nghĩa quân ta giết chết ở gò Mã Yên, Vương Thông sợ hãi không đợi lệnh vua Minh đã tự ý rút quân về nước.

b. Bố cục của bức thư

Gồm 3 đoạn:

+ Đoạn 1: Từ đầu đến... Sao đủ để cùng nói việc binh được?: Tác giả nêu lên nguyên tắc của người dùng binh là phải hiểu biết về thời và thế.

+ Đoạn 2: Tiếp theo đến... bại vong đó là sáu: Tác giả phân tích thời và thế bất lợi của đối phương.

+ Đoạn 3: Phần còn lại: Tác giả khuyên các tướng giặc đầu hàng và hứa hẹn những điều tốt đẹp; đồng thời thách đấu và sỉ nhục chúng.

c. Nội dung của bức thư

* Nguyên tắc của người dùng binh là phải hiểu biết về thời và thế

- Thế nào là thời và thế? Thời là khoảng thời gian nhất định. Thế là tổng thể các mối quan hệ tạo thành điều kiện chung có lợi hoặc không có lợi cho một hoạt động nào đó của con người. Người lãnh đạo trong bất kì một lĩnh vực nào đó muốn thành công thì phải hiểu rõ thời và thế.

- Tác giả chỉ rõ cho tướng giặc biết thuật dùng binh bằng giọng điệu bề trên tỏ ý coi thường sự dốt nát của chúng: Người giỏi dùng binh là ở chỗ hiểu biết thời thế... Nay các ông không hiểu rõ thời thế, lại che đậy bằng lời dối trá, thế chẳng phải là hạng thất phu đớn hèn ư? Sao đủ để cùng nói việc binh được? Nguyễn Trãi khẳng định đây là nguyên lý cơ bản có giá trị như một chân lí.

* Tác giả phân tích thời và thế bất lợi của đối phương

- Cái thế của nhà Minh bên Trung Quốc hiện đang có ba điều bất lợi: Chính sách hà khắc tất dẫn đến diệt vong. Phía Bắc có giặc Thiên Nguyên đe doạ. Trong nước có nội loạn ở Tầm Châu. Nguyễn Trãi nêu lên một loạt dẫn chứng trong lịch sử Trung Quốc, đồng thời liên hệ tới tình hình rối ren đương thời.

- Cái thế của quân Minh trong thành Đông Quan bây giờ cũng có ba điều bất lợi: Thành bị vây; không viện binh; không lương thực. Dân chúng trong thành căm ghét tìm cách chống lại; quân lính thì oán trách, bất bình. Trong những khó khăn chủ quan về phía giặc thì nguyên nhân để mất lòng tin là cốt yếu, chi phối toàn bộ chiến lược của chúng. Đúng là quân giặc trong thành Đông Quan đang lâm vào tình thế cá trên thớt, thịt trong nồi.

- Trên cơ sở phân tích thời, thế và sự tương quan giữa ta và địch, Nguyễn Trãi chỉ ra cho lũ tướng giặc thấy sáu cái cớ bại vong không thể tránh khỏi của chúng. (Dẫn chứng). Nắm vững lẽ biến dịch “cùng tắc biến, biến tắc thông”, Nguyễn Trãi khẳng định thế cùng của giặc, trước mắt chúng sẽ tự tiêu diệt lẫn nhau. Đây là đoạn văn hay nhất trong bức thư bởi lập luận sắc bén, chặt chẽ, có lí có tình và giọng văn hùng hồn, đanh thép. Tướng giặc đọc thư này ắt phải khâm phục và khiếp sợ.

* Khuyên lũ tướng giặc đem quân đầu hàng và hứa hẹn những điều tốt đẹp

- Trong phần kết thúc bức thư, tác giả nêu ra hai khả năng cho các tướng giặc lựa chọn: một là đầu hàng, hai là mở cửa thành đem quân ra giao chiến với nghĩa quân Lam Sơn. Tuy nhiên, ông vẫn chỉ ra cho chúng thấy rằng đầu hàng là kế sách tốt nhất để đỡ hao binh tổn tướng.

- Dù đang ở tư thế chủ động nhưng Nguyễn Trãi vẫn giữ thái độ đúng mực: đối với đám tướng giặc ngoan cố, tàn ác thì cương quyết tiêu diệt, đối với tướng giặc nào biết nghe lẽ phải thì kiên trì phân tích để dụ hàng. Lời lẽ của tác giả lúc cương, lúc nhu rất linh hoạt và giàu sức thuyết phục.

- Bức thư cũng thể hiện sức mạnh và thế áp đảo của nghĩa quân Lam Sơn đang bao vây thành Đông Quan. Bên cạnh đó, tác giả cũng dùng mưu khích tướng, coi tướng giặc là lũ thất phu, là hạng đàn bà, không phải đại trượng phu... không thể bàn việc binh được. Cách lập luận phong phú của tác giả vẫn không ngoài mục đích dụ hàng.

- Tinh thần yêu chuộng hoà bình của Nguyễn Trãi nói riêng và quân dân Đại Việt nói chung thể hiện ở niềm tin tất thắng và thái độ thực lòng muốn hòa hiếu giữa hai nước. Đó là tư tưởng chiến lược lâu dài rất sáng suốt và đúng đắn. Tác giả bức thư nêu rõ thiện chí không chủ trương tiêu diệt quân Minh và sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi cho quân Minh rút về nước.

- Cuối thư là lời cảnh cáo có tính chất tối hậu thư đối với tướng giặc Vương Thông với lời lẽ vừa đanh thép, hùng hồn vừa nhục mạ, chế giễu: Nếu không nghe lời ta như vậy, thì nên sắm quân dàn trận, ra giao chiến ở giữa đồng bằng để quyết một trận thư hùng, đặng xem cái tài hơn kém, không nên ngồi rũ một xó hang cùng, bắt chước cái lối đàn bà mà mang cái nhục khăn yếm như thế!

2.3. Kết bài

- Khẳng định tài năng của Nguyễn Trãi và giá trị của tác phẩm.

3. Bài văn mẫu

Đề bài: Phân tích tác phẩm Thư lại dụ Vương Thông của Nguyễn Trãi

Gợi ý làm bài

3.1. Bài văn mẫu số 1

Trong sự nghiệp phò tá Lê Lợi đánh đuổi giặc Minh cướp nước, nhiều lần mưu sĩ Nguyễn Trãi đã soạn thảo thư từ gửi cho các tướng giặc để mắng nhiếc, khiêu khích hoặc dụ hàng, nhằm thực hiện chiến lược “mưu phạt tâm công”. Học giả Bùi Huy Bích đã nhận xét rất chính xác: “Các bức thư này có sức mạnh của mười vạn quân”.

Thư lại dụ Vương Thông là bức thư số 35, có nội dung và nghệ thuật hay nhất, sau này được in trong Quân trung từ mệnh tập. Bằng cách thuyết phục này, Nguyễn Trãi đã đạt được mục đích: Ta không đánh mà giặc cũng tan.

Lúc bấy giờ, quân giặc trong thành Đông Quan (tức Hà Nội ngày nay) bị nghĩa quân Lam Sơn vây hãm, đang lâm vào tình cảnh khốn đốn. Nguyễn Trãi viết bức thư này vào khoảng tháng 2-1427 thì đến tháng 10 năm ấy, sau khi tướng giặc Liễu Thăng bị giết ở gò Mã Yên, Vương Thông sợ hãi, không đợi lệnh vua Minh đã tự ý rút quân về nước.

Với lập luận chặt chẽ, sắc bén, qua Thư dụ Vương Thông lần nữa, Nguyễn Trãi đã thể hiện ý chí quyết chiến quyết thắng và tinh thần yêu chuộng hòa bình của quân dân Đại Việt.

Bố cục bức thư gồm ba đoạn:

Đoạn 1: Từ đầu đến… Sao đủ để cùng nói việc binh được?: Tác giả nêu lên nguyên tắc của người dùng binh là phải hiểu biết thời thế.

Đoạn 2: Từ Trước đây các ông… đến… bại vong đó là sáu: Nguyễn Trãi phân tích thời và thế bất lợi của đối phương.

Đoạn 3: Phần còn lại: Tác giả khuyên các tướng giặc đầu hàng, hứa hẹn những điều tốt đẹp. Đồng thời thách đấu và sỉ nhục tướng giặc.

Muốn hiểu rõ nội dung bức thư, việc đầu tiên chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa của hai từ thời và thế.

Thời là khoảng thời gian nhất định. Thế là tổng thể các mối quan hệ tạo thành điều kiện chung có lợi hoặc không có lợi cho một hoạt động nào đó của con người. Không chỉ riêng các nhà quân sự mà những người làm kinh tế hoặc ngoại giao cũng phải hiểu thời và thế thì mới đạt được kết quả tốt trong công việc.

Thời thế trong một cuộc chiến là hoàn cảnh chung, là vị trí, vai trò của trận đánh, là sự tương quan lực lượng giữa hai bên… Trên cơ sở đó, các tướng lĩnh sẽ đưa ra cách đánh hợp lí nhất để đạt mục đích của từng trận đánh nói riêng và của cả chiến dịch nói chung.

Mở đầu bức thư, tác giả chỉ cho tướng giặc biết thuật dùng binh:

Người giỏi dùng binh là ở chỗ hiểu biết thời thế. Được thời và có thế thì biến mất thành còn, hóa nhỏ thành lớn; mất thời và không thế, thì mạnh hóa ra yếu, yên lại thành nguy, sự thay đổi ấy chỉ ở trong khoảng trở bàn tay. Nay các ông không hiểu rõ thời thế, lại che đậy bằng lời dối trá, thế chẳng phải là hạng thất phu đớn hèn ư? Sao đủ để cùng nói việc binh được?

Đây là đoạn văn có vai trò nêu chủ đề, mở ra hướng lập luận cho toàn bài. Ở các đoạn sau, tác giả nêu ra những luận điểm, luận chứng hết sức chặt chẽ và chính xác để làm nổi bật chủ đề.

Chủ đề bức thư là bàn về việc binh, mà điều quan trọng là người dùng binh muốn chiến thắng thì phải biết thời thế. Nguyễn Trãi khẳng định đây là, nguyên lý cơ bản có giá trị như một chân lý. Tác giả phân tích thời thế bất lợi của đối phương nhằm mục đích thuyết phục, dụ hàng, đồng thời nhận xét rằng tướng giặc không những không hiểu thời thế mà còn dối trá, che đậy nguy cơ thất bại đối với binh lính dưới quyền.

Ở đoạn 2 của bức thư, tác giả chỉ ra ba ý: Ý thứ nhất nói đến cái thế của nhà Minh ở Trung Quốc (hậu phương); ý thứ hai nói đến cái thế của quân Minh ở thành Đông Quan; ý thứ ba chỉ ra sáu nguyên nhân bại vong của giặc.

Cái thế của nhà Minh ở Trung Quốc có ba điều bất lợi: Chính sách hà khấc tất dẫn đến diệt vong. Phía Bắc có giặc Thiên Nguyên đe dọa. Trong nước có nội loạn ở Tầm Châu.

Nguyễn Trãi đã nêu lên một loạt dẫn chứng trong lịch sử Trung Quốc, đồng thời liên hệ đến tình hình nội bộ rối ren của Trung Quốc hiện thời:

Ngày xưa nhà Tần thôn tính sáu nước, chuyên chế bốn bể, không chăm lo đức chính, thân mất nước tan. Nay Ngô mạnh không bằng Tần, mà hà khắc lại quá, không đầy một năm tất sẽ theo nhau mà chết, ấy là mệnh trời, không phải sức người vậy. Hiện nay phía bắc có kẻ địch Thiên Nguyên, phía nam có mối lo nội loạn ở các xứ Tầm Châu, một khu Giang Tả không tự giữ được, huống còn mưu toan đi cướp nước khác ư? Các ông không hiểu sự thế, bị người đánh bại, lại còn chực dựa uy Trương Phụ, thế có phải là đại trượng phu chăng, hay chỉ là đàn bà thôi?

Tình thế ngày nay, dù có vị ngôi cao đem quân đến nữa, cũng chỉ càng mau chết mà thôi, huống chi Trương Phụ chỉ là đến nộp mạng, thì có gì đáng nói.

Cái thế của quân Minh ở thành Đông Quan cũng có ba điều bất lợi: Thành bị vây, không viện binh, không lương thực. Dân chúng trong thành căm ghét tìm mọi cách chống lại. Quân lính thì oán trách, bất bình:

"Nay các ông kế cùng lực kiệt, lính tráng mỏi mệt, trong không lương thảo, ngoài không vận binh, bám hờ khu nhỏ mọn, nghĩa tạm thành chơ vơ, há chẳng như là thịt trên thớt, cá trong nổi rồi sao? Thế mà lại còn lừa dối dân ta, dụ điều phi nghĩa. Kìa những kẻ trung thần nghĩa sĩ, dù thời cùng vận khốn cũng nếm mật nằm gai, không chịu đem lòng kia khác; lẽ nào ngày nay lại chịu tin theo những lời bất nghĩa của các ông. Chỉ e người Nam trong thành nhớ mến chúa cũ, người Ngô ở đây khốn khổ không kham thì những người chống các ông sẽ kéo nhau ra hàng; như Trương Phi, Lữ Bố, các ông lại bị chính thuộc hạ giết hại, đó là lẽ tất nhiên."

Trong những khó khăn chủ quan về phía giặc, thì nguyên nhân để mất lòng tin là nguyên nhân cốt yếu, chi phối toàn bộ chiến lược của chúng. Đúng là như vậy! Thành trì bị quân ta vây chặt, gặp nạn lụt lội, lương thực cho người, cỏ rơm cho lừa, ngựa đã cạn, mà viện binh vẫn tuyệt tăm hơi. Đó là điều thất bại trông thấy trước mắt. Đúng là quân Minh rơi vào cái thế hoàn toàn bị động của “cá trên thớt, thịt trong nồi”:

Nay ở các thành, từ đô ti trở xuống, đều căm giận các ông lừa dối, khuyên ta làm cỏ cả thành. Hoặc có kẻ vượt lũy trốn ra, tố cáo cả việc sắp đặt chiến cụ, sửa đóng xe thang. Những người bị khốn sẽ giết lẫn nhau, hà tất phải đợi quân sĩ của ta nữa.

Trên cơ sở phân tích sự chuyển biến của thời và thế cùng mối tương quan lực lượng giữa ta và địch, Nguyễn Trãi đã vạch rõ cho lũ tướng giặc thấy sáu cái cớ bại vong:

"Nguyên nhân thứ nhất là những khó khăn chồng chất mà chúng đang gặp phải, không thể vượt qua.

Nguyên nhân thứ hai là không có viện binh đến cứu, giặc Minh ở Đông Quan rơi vào tình cảnh “nước xa không cứu được lửa gần”.

Nguyên nhân thứ ba là triều đình nhà Minh đang phải lo đối phó với quân Nguyên, không rỗi mà quan tâm đến tình cảnh bi đát của đám tướng sĩ xâm lược ở nước Nam.

Nguyên nhân thứ tư là nội chiến xảy ra liên miên khiến cho dân chúng sống dưới triều đại nhà Minh không được yên ổn, đâm ra chán nản và thất vọng.

Nguyên nhân thứ năm là ở triều đình nhà Minh, bọn gian thần chuyên chính, nội bộ lục đục tranh giành quyền lực, gây ra cảnh nồi da xáo thịt.

Nguyên nhân thứ sáu là lực lượng nghĩa quân Lam Sơn càng ngày càng mạnh mẽ, trong khi quân Minh ngày càng mỏi mệt, nhụt chí chiến đấu."

Nắm rất chắc lẽ biến dịch “cùng tắc biến, biến tắc thông”, Nguyễn Trãi đã chỉ ra cho bọn tướng giặc biết là cái thế “cùng” của chúng không thể kéo dài mà tất sẽ bung ra, trước hết là từ ngay trong lòng của nó. Hay nói cách khác, tự quân lính dưới quyền của chúng sẽ quay mũi giáo chống lại chúng để tìm đường giải thoát, vì nếu không thì sẽ chết thảm. Nguyễn Trãi nêu lên từng luận điểm cụ thể với lí lẽ và dẫn chứng thật chặt chẽ, chính xác:

"Nay ta suy tính hộ các ông thì cái cớ bại vong có sáu!

Nước lụt mênh mông, tường rào đổ vỡ, lương cỏ thiếu thốn, ngựa chết quân ốm; bại vong đó là một!

Xưa Đường Thái Tông bắt Kiến Đức mà Thế Sung phải ra hàng; nay bao nhiêu cửa quan hiểm trở đều có binh tướng đồn đóng, viện binh nếu đến, tất nhiên bị bại, viện binh đã bại, các ông còn trốn đằng trời; bại vong đó là hai!

Nước các ông binh khỏe ngựa béo, nay còn để cả miền bắc để phòng thủ quân Nguyên, không rỗi đâu nhìn sang nước Nam được; bại vong đó là ba!

Can qua liên miên, phinh phạt không nghị người chẳng sống yên, nhao nhao thất vọng; bại vong đó là bốn!

Gian thần chuyên chính, chúa yếu trị vì, xương thịt hại nhau, “gia đình sinh biến”; bại vong đó là năm!

Nay ta dấy nghĩa quân, trên dưới đồng lòng, anh hùng tận lực, quân lính càng luyện, khí giới càng tinh, vừa cày ruộng vừa đánh giặc, trong thành quân sĩ mỏi mệt, tự chuốc diệt vong; bại vong đó là sáu!"

Đây là đoạn hấp dẫn nhất của bức thư mà nội dung xoáy sâu vào tình thế tiến thoái lưỡng nan của giặc. Dẫn chứng cụ thể, lời lẽ sắc bén, giọng văn hùng hồn của tác giả khiến vương Thông và lũ tướng giặc không thể coi thường, đọc đến đây ắt sợ toát mồ hôi.

Trong phần kết của bức thư, Nguyễn Trãi nêu ra hai khả năng cho quân Minh lựa chọn: một là đầu hàng, hai là mở cửa thành đem quân ra giao chiến với nghĩa quân Lam Sơn. Tác giả khuyên chúng nên đầu hàng là có lợi nhất:

"Ngồi giữ một mảnh thành con, để chờ sáu cái cớ bại vong ấy, thật tiếc thay cho các ông! cổ nhân có câu: “Nước xa không cứu được lửa gần”. Dù có viện binh đến đây, cũng không ích gì cho sự bại vong cả. Trước đây Phương Chính, Mã Kỳ chỉ chuyên làm những sự hà ngược, sinh linh lầm than, thiên hạ oán thán: nào đào mồ mả của làng ấp ta, nào bắt vợ con của dân ta, kẻ chết hàm oan; người sống bị khổ. Các ông là những người xét rõ sự cơ, hiểu sâu thời thế, vậy nên chém đầu Phương Chính, Mã Kỳ đem đến cửa quân dâng nộp. Như vậy trong thành sẽ khỏi nạn cá thịt, trong nước sẽ khỏi vạ đau thương, hòa hiếu lại thông, can qua xếp bỏ."

Mặc dù ở tư thế của người nắm phần chủ động, hơn hẳn về sức mạnh quân sự cũng như thời thế, song thái độ của tác giả vẫn hết sức đúng mực. Tác giả có sự phân biệt rõ ràng trong cách đối xử với các tướng nhà Minh. Đối với bọn Phương Chính, Mã Kỳ tàn ác, ngoan cố thì cương quyết tiêu diệt; đối với Vương Thông, Sơn Thọ và các tướng khác thì kiên trì phân tích phải trái, lúc cương, lúc nhu rất linh hoạt, chủ yếu là để dụ chúng đầu hàng.

Bức thư cũng thể hiện và nhấn mạnh cái thế áp đảo của quân ta. Khi Nguyễn Trãi viết bức thư này, nghĩa quân Lam Sơn đang bao vây thành Đông Quan. Tác giả vừa sỉ nhục coi lũ tướng giặc là đám thất phu, không cùng bàn việc binh được, là hạng đàn bà, không phải đại trượng phu để làm cho chúng hổ thẹn; vừa dùng lí lẽ phân tích sáu cớ bại vong nhằm lung lạc ý chí của chúng; đồng thời thách thức giao chiến để chứng tỏ sức mạnh quân sự của ta.

Niềm tin tất thắng của tác giả vào công cuộc chống quân Minh thể hiện ở sự hiểu rõ thế thất bại tất yếu của địch. Tinh thần yêu chuộng hòa bình của Nguyễn Trãi thể hiện ở thiện chí không chủ trương tiêu diệt quân Minh khi chúng đã bại trận mà tạo điều kiện cho chúng rút quân:

"Nếu muốn rút quân về nước, ta sẽ sửa sang cầu cống, mua sắm tàu thuyền, thủy lục hai đường, tùy theo ý muốn; quân ra khỏi cõi, muôn phần bảo đảm được yên ổn không lo ngại gì; nước ta lại phụng cống xưng thần, theo lệ như trước."

Tác giả hiểu rõ quan hệ đặc biệt giữa ta với Trung Quốc nên không muốn gây thù, chuốc oán mà muốn giữ quan hệ láng giềng thân thiện. Phần kết bức thư đã thể hiện rõ tư tưởng chiến lược sáng suốt, có ý nghĩa lâu dài của Nguyễn Trãi.

Cuối cùng là lời cảnh cáo có tính chất tối hậu thư cho vương Thông:

"Nếu không nghe lời ta như vậy, thì nên sắm quân dàn trận, ra giao chiến ở giữa đồng bằng để quyết một trận thư hùng, đặng xem cái tài hơn kém, không nên ngồi rũ một xó hang cùng, bắt chước cái lối đàn bà mà mang cái nhục khăn yếm như thế!"

Nguyễn Trãi là một ngòi bút chính luận lỗi lạc. Các bức thư địch vận của ông có sức mạnh như một vũ khí sắc bén. Bài Thư dụ Vương Thông lần nữa thể hiện tác giả là tài năng nghị luận bậc thầy trong lịch sử văn học dân tộc. Có thể coi văn bản trên là một đòn đánh mạnh vào âm mưu cố thủ, chờ viện binh sang để phản công quân ta của đám tướng lĩnh nhà Minh.

Nguyễn Trãi đã lấy sự phân tích xác thực về thời thế, lấy chính tỉnh thần nhân đạo, yêu chuộng hòa bình để thuyết phục tướng giặc. Sức mạnh của sách lược “đánh vào lòng người” ở bức Thư dụ Vương Thông lần nữa thể hiện một trí tuệ sáng suốt, một tấm lòng nhân ái cao cả, yêu hòa bình chính nghĩa của quân dân Đại Việt.

3.2. Bài văn mẫu số 2

Nguyễn Trãi vừa là nhà thơ vừa là nhà quân sự lỗi lạc cho vua Lê lợi. Thơ văn của ông thể hiện tình yêu thiên nhiên, cuộc sống và con người. Nguyễn Trãi tuy không trực tiếp ra trận nhưng ông đã dùng ngòi bút của mình để giúp vua. Ông có nhiều tác phẩm nổi tiếng nhưng tiêu biểu nhất là tác phẩm Quân trung từ mệnh tập có đoạn trích Thư dụ Vương Thông lần nữa thể hiện tài năng quân sự giỏi giang của Nguyễn Trãi. Đoạn trích thể hiện rõ khát vọng hòa bình và ý chí quyết thắng giặc ngoại xâm của nhân dân ta.

Thư dụ Vương Thông lần nữa là lá thư số 35 trong Quân Trung từ mệnh tập. Chính lá thư này làm cho Nguyễn Trãi có được nguyện vọng “ta không đánh mà vẫn tan”. Về sau thư gửi của Nguyễn Trãi được vua gọi là biểu và tấu là ban công việc chiến, việc hòa bình mang đậm tính chất chính luận.

Bức thư này được viết khi địch đang bị ta bao vây ở thành Đông Quan rất khốn đốn. Bức thư viết nhằm dụ địch ra đầu hàng và rút quân về nước “Các ông là những người xét rõ sự cơ, hiểu sâu thời thế, vậy nên chém đầu Phương Chính, Mã Kì đem đến cửa quân dâng nộp. Như vậy, trong thành sẽ tránh được nạn cá thịt, trong nước sẽ khỏi vạ đau thương, hoà hiếu lại thông, can qua xếp bỏ”.

Đoạn mở đầu, Nguyễn Trãi dùng những tư tưởng về thời thế đối với người dùng binh. Như người binh phải biết thời thế khi dùng binh mà trong thời thế này thì chỉ rút quân. Không thì mang quân ra thành đánh chiến phân cao thấp thắng bại. Nguyễn Trãi là một người có tài tư tưởng dùng binh rất tinh tế và đúng đắn. Trong hoàn carnh ấy Nguyễn Trãi rất bình tĩnh và phân tích rất sắc sảo trong từng dòng ghi trong bức thư. Từ việc này người đọc thấy được ông là một người rất am hiểu binh thư. Đồng thời từ bức thư này còn thể hiện rõ sự yêu chuộng hòa bình của nhân dân ta. Tác giả phân tích rồi sử dụng tiếp cương hay nhu như Vương Chính,Mã Kì tàn ác ngoan cố hì tiêu diệt còn Vương Thông, Sơn Thọ thì phân tích tình hình khuyên nhủ. Cuối cùng đề là khuyên hàng không thì khích tướng để dụ chúng ra trận mau chóng kết thúc. Bức thư rất tinh tế và sắc sảo nhằm đuổi giặc về nước mà tránh được thương đau cho nhân dân.

Sau đó Nguyễn Trãi nói rõ hơn thế nhà Minh ở Trung Quốc, Đông Quan và chỉ ra sáu nguyên nhân bại vong của giặc. Thế nhà Minh ở Trung Quốc có ba điều rất bất lợi đó là:: “Chính sách hà khất tất dẫn đến diệt vong. Phía Bắc có giặc Thiên Nguyên đe dọa. Trong nước có nội loạn ở Tầm Châu”.Khi nói đến những điều bất lợi đó Nguyễn Trãi cũng nhằm nêu lên tình hình rối ren của quân địch lúc bấy giờ. Rồi sau đó ông lại nói cái khốn khó của quân minh ở thành Đông Quan, chúng mệt mỏi rệu rã lương không có ăn, tinh thần chiến đấu giảm xuống. Khi đó quân ta chưa cần giết thì chúng cũng tự giết nhau rồi.

Nguyễn Trãi đúng là một nhà quân sự lỗi lạc ông chỉ ra sáu nguyên nhân khiến chúng bại trận tự ra đầu hàng để tránh thương vong đẫm máu. Đầu tiên là những khó khăn chồng chất mà chúng đang gặp phải, không thể vượt qua. Thứ hai là không có viện binh đến cứu, giặc Minh ở Đông Quan rơi vào tình cảnh “nước xa không cứu được lửa gần”. Thứ ba là triều đình nhà Minh đang phải lo đối phó với quân Nguyên, không rỗi mà quan tâm đến tình cảnh bi đát của đám tướng sĩ xâm lược ở nước Nam. Thứ tư là nội chiến xảy ra liên miên khiến cho dân chúng sống dưới triều đại nhà Minh không được yên ổn, đâm ra chán nản và thất vọng. Thứ năm là ở triều đình nhà Minh, bọn gian thần chuyên chính, nội bộ lục đục tranh giành quyền lực, gây ra cảnh nồi da xáo thịt. Thứ sáu là lực lượng nghĩa quân Lam Sơn càng ngày càng mạnh mẽ, trong khi quân Minh ngày càng mỏi mệt, nhụt chí chiến đấu. Nguyễn Trãi nhấn mạnh từng nguyên nhân và khó khăn bất lợi của giặc Minh lúc bấy giờ để cho giặc minh nhận ra vị trí của mình như thế nào và đưa ra quyết định đúng đắn hơn.

Từ lúc bức thư được gửi đi đến sáu tháng sau thì quân do Liễu Thăng chỉ hauy vào Lạng Sơn, Mộc Thanh chỉ huy năm vạn quân vào Lào Cai và đều thất bại thê thảm. Từ đây ta thấy được tài nhìn xa trông rộng và ý chí lãnh đạo đúng đắn của Nguyễn Trãi.

Sau đó ông chỉ ra hai con đường một là rút quân về nước tránh tình trạng thịt nát xương tan máu mê đầm đìa thứ hai nếu cố chấp thì “ra giao chiến ở giữa đồng bằng để quyết một trận thư hùng. Qua đây ta thấy rõ bức thư của Nguyễn Trãi như một bản đồ quân sự phân tích chiến thuật tiến công rõ ràng và điểm yếu điểm mạnh của địch.

Như vậy qua thư dụ ta thấy được Nguyễn Trãi là mảng văn chương chính luận. Ông không những là nhà thơ văn yêu thiên nhiên cuộc sống và con người mà ông còn rất giỏi đề ra chiến lược chiến công khiến kẻ thù khiếp sợ. Nguyễn Trãi sử dụng ngòi bút của mình như một loại vũ khí đặc biệt để đánh bại kẻ thù.

----------Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp-----------

 

NONE
AANETWORK
 

 

YOMEDIA
ATNETWORK
ON