YOMEDIA

Phân tích tác phẩm Sự giàu đẹp của Tiếng Việt

Tải về
 
NONE

Bài văn mẫu Phân tích tác phẩm Sự giàu đẹp của Tiếng Việt dưới đây nhằm giúp các em học sinh lớp 7 thêm tự hào và biết giữ gìn thứ tiếng của dân tộc ta. Mời các em cùng tham khảo nhé! Ngoài ra, để làm phong phú thêm kiến thức cho bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài giảng Sự giàu đẹp của Tiếng Việt.

ADSENSE

1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý

2. Dàn bài chi tiết

a. Mở bài:

- Giới thiệu về tác giả Đặng Thai Mai (những nét chính về tiểu sử, cuộc đời, các công trình nghiên cứu…)

- Giới thiệu về văn bản “Sự giàu đẹp của tiếng Việt” (hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật…)

b. Thân bài:

* Nhận định chung về sự giàu đẹp của tiếng Việt

- Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay:

+ Tiếng Việt là một thứ tiếng hài hòa về mặt âm hưởng, thanh điệu mà cũng rất tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu.

+ Tiếng Việt có đầy đủ khả năng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng của người Việt Nam và để thỏa mãn cho yêu cầu của đời sống văn hóa nước nhà qua các thời kỳ lịch sử.

=> Cách lập luận rành mạch, ngắn gọn, có sức khái quát cao, đi từ khái quát đến cụ thể

* Biểu hiện sự giàu đẹp của tiếng Việt:

- Tiếng Việt là một thứ tiếng đẹp

+ Tiếng Việt là một thứ tiếng giàu chất nhạc:

  • Nhận xét của những người ngoại quốc sang thăm nước ta và có dịp nghe tiếng nói của quần chúng nhân dân ta.
  • Một giáo sĩ nước ngoài đã nói đến tiếng Việt như là một thứ tiếng “đẹp” và “rất rành mạch trong lối nói, rất uyển chuyển trong câu kéo, rất ngon lành trong những câu tục ngữ”.
  • Gồm hệ thống nguyên âm và phụ âm khá phong phú.
  • Giàu về thanh điệu, giàu ngữ âm như những âm giai trong một bản nhạc trầm bổng.

- Tiếng Việt là một thứ tiếng hay

+ Thỏa mãn nhu cầu trao đổi tình cảm, ý nghĩ giữa con người với con người.

+ Thỏa mãn nhu cầu ngày của đời sống ngày một phức tạp về mọi mặt:

  • Dồi dào về cấu tạo từ ngữ, hình thức diễn đạt.
  • Từ vựng: tăng lên qua các thời kỳ.
  • Ngữ pháp: dần dần trở nên uyển chuyển, chính xác hơn.
  • Ngữ âm: không ngừng đặt ra những từ mới, những cách nói mới hoặc Việt hóa những từ và cách nói của các dân tộc anh em và các dân tộc láng giềng.

=> Mối quan hệ giữa cái hay và cái đẹp của tiếng Việt: cái đẹp và cái hay có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, mật thiết với nhau tạo nên sức sống cho tiếng Việt

c. Kết bài:

- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản:

+ Nội dung: Bài văn đã chứng minh sự giàu có và đẹp đẽ của tiếng Việt trên nhiều phương diện: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp.

+ Nghệ thuật: lập luận chặt chẽ, kết hợp nhiều thao tác lập luận, chứng cứ chặt chẽ và toàn diện…

- Liên hệ bản thân: cần có ý thức giữ gìn sự giàu có, trong sáng của tiếng Việt…

3. Bài văn mẫu

Đề bài: Em hãy viết bài văn phân tích tác phẩm Sự giàu đẹp của Tiếng Việt.

Gợi ý làm bài:

3.1. Bài văn mẫu số 1

Trong bài viết “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng có viết: “Có lẽ tiếng Việt của chúng ta đẹp bời vì tâm hồn của người Việt Nam ta rất đẹp, bởi vì đời sống, cuộc đấu tranh của nhân của ta từ trước tới nay là cao quý, là vĩ đại, nghĩa là rất đẹp…”. Một lần nữa, nhà phê bình Đặng Thai Mai đã khẳng định mạnh mẽ điều ấy trong văn bản “Sự giàu đẹp của Tiếng Việt”, trích đoạn trích ở phần đầu của bài nghiên cứu dài Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc in lần đầu năm 1967.

Mở đầu văn bản, tác giả Đặng Thai Mai đã đưa ra nhận định: “Tiếng Việt là một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay”. Đồng thời, tác giả cũng giải thích nhận định ấy một cách ngắn gọn: “Nói như thế có nghĩa là là nói rằng: tiếng Việt là một thứ tiếng hài hoà về mặt âm hưởng, thanh điệu mà cũng rất tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu. Nói thế cũng có nghĩa là nói rằng: Tiếng Việt có đầy đủ khả năng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng của người Việt Nam và để thoả mãn cho yêu cầu của đời sống văn hoá nước nhà qua các thời kỳ lịch sử”.

Tiếp theo, tác giả đã tập trung chứng minh sự giàu đẹp và phong phú của Tiếng Việt về các mặt ngữ âm, từ vựng và cú pháp: “Tiếng Việt là một thứ tiếng giàu chất nhạc”; “rất rành mạch trong lối nói, rất uyển chuyển trong câu kéo, rất ngon lành trong những câu tục ngữ”; “gồm một hệ thống nguyên âm và phụ âm khá phong phú”; “là phương tiện trao đổi tình cảm, ý nghĩ giữa người với người”; “có những khả năng dồi dào về phấn cấu tạo từ ngữ cũng như hình thức diễn đạt”; “từ vựng tiếng Việt qua các thời kỳ diễn biến của nó tăng lên mỗi ngày một nhiều”; “ngữ pháp cũng dần dần trở nên uyển chuyển”; “không ngừng đặt ra những từ mới, những cách nói mới”. Với những dẫn chứng tương đối phong phú và toàn diện, tác giả đã làm rõ sự giàu đẹp của tiếng Việt và trên cơ sở đó kết luận: “Cấu tạo tiếng Việt với khả năng thích ứng với hoàn cảnh là một chứng cứ về sức sống của nó”.

Tiếng Việt có khả năng dồi dào về cấu tạo từ ngữ và hình thức diễn đạt. Cùng là đại từ ta nhưng sắc thái biểu cảm của nó trong bài thơ “Qua đèo Ngang” của Bà huyện Thanh Quan (Một mảnh tình riêng ta với ta) khác với đại từ ta trong bài thơ Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến (Bác đến chơi đây ta với ta).

Qua các thời kỳ lịch sử, cả hai mặt từ vựng và cấu tạo ngữ pháp của tiếng Việt rất phát triển, có khả năng thích ứng với thực tiễn. Đó là biểu hiện rõ rệt về sức sống dồi dào của tiếng Việt. Tác giả đã chứng minh tiếng Việt là một thứ tiếng đẹp, hài hòa về mặt âm hưởng và thanh điệu. Cái hay của tiếng Việt thể hiện ở chỗ linh hoạt, uyển chuyển trong cách dùng từ, đặt câu. Tiếng Việt có đầy đủ khả năng diễn đạt tình cảm, tư tưởng của con người, thỏa mãn các yêu cầu phát triển của đời sống văn hóa, xã hội. Giữa hai phẩm chất đẹp và hay của tiếng Việt có quan hệ gắn bó khăng khít. Cái đẹp của một thứ tiếng thường cũng phản ánh cái hay của thứ tiếng ấy, vì nó thể hiện sự phong phú, tinh tế trong cách diễn đạt, cũng tức là thể hiện sự chính xác và sâu sắc trong tình cảm, tư tưởng của con người. Ngược lại cái hay cũng tạo ra vẻ đẹp của một ngôn ngữ. Chẳng hạn, trong tiếng Việt, sự tinh tế, uyển chuyển trong cách đặt câu, dùng từ, không chỉ là cái hay, mà còn tạo ra vẻ đẹp trong hình thức diễn đạt.

Bài nghị luận này thể hiện trình độ hiểu biết sâu sắc về tiếng Việt của nhà nghiên cứu của Đặng Thai Mai. Tác giả đã khơi dậy trong lòng chúng ta lòng tự hào và ý thức bảo vệ Sự giàu đẹp của tiếng việt. Yêu tiếng mẹ đẻ là biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước. Đọc và suy ngẫm kĩ về bài văn trên, chúng ta càng thêm tin tưởng vào tương lai tươi sáng của tiếng Việt.

3.2. Bài văn mẫu số 2

Chúng ta là người Việt Nam, hằng ngày dùng tiếng mẹ đẻ, tiếng nói của toàn dân - tiếng Việt - để suy nghĩ, nói năng, giao tiếp. Nhưng ít người có thể hiểu rõ về những nét đẹp của tiếng Việt. Qua tác phẩm “Sự giàu đẹp của tiếng Việt” Đặng Thai Mai đã giải thích và chứng minh một cách thuyết phục nét đặc trưng cơ bản của tiếng nói Việt Nam chúng ta: "giàu và đẹp".

Bài “Sự giàu đẹp của tiếng Việt” (tên bài do người soạn sách đặt) là đoạn trích ở phần đầu của bài nghiên cứu Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc, in lần đầu năm 1967, được bổ sung và đưa vào Tuyển tập Đặng Thai Mai. Tuy là đoạn trích, sông văn bản mà chúng ta được đọc vẫn có cấu tạo khá trọn vẹn như một áng văn nghị luận thể văn chứng minh.

Vì là bài nghị luận nghiên cứu khoa học về ngôn ngữ, nên tác giả dùng lí lẽ và dẫn chứng thuộc phạm vi ngôn ngữ và thực tiễn, chứ không đưa ra những ví dụ cụ thể về những ngữ liệu văn chương hay tiếng nói trong đời sống hằng ngày. Do đó, khi tìm hiểu áng văn này, chúng ta cần kết hợp việc suy ngẫm vẻ các lí lẽ, các dẫn chứng của tác giả với những liên tưởng vốn liếng văn chương, tiếng nói hằng ngày để chia sẻ và thấu hiểu tư tưởng, tình cảm tác giả.

Mở đầu bài viết, Đặng Thai Mai dẫn chúng ta vào ngày vấn đề bằng hai câu biểu cảm. Người Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và vững chắc để tự hào với tiếng nói của mình. Và để tin tưởng hơn nữa vào tương lai của nó". Câu thứ nhất cấu tạo bình thường. Câu sau rút gọn, ẩn chủ ngữ theo kiểu câu "tách trạng ngữ thành câu riêng". Kiểu câu không bình thường này, kết hợp hai từ biểu cảm tự hào, tin tưởng thể hiện rõ tình yêu, thái độ trân trọng của tác giả đối với tiếng nói Việt Nam. Từ đó, tác giả lôi cuốn người đọc vào vấn đề "Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay". Câu văn thứ ba vừa toát ra tình cảm mến yêu, trân trọng, vừa bày tỏ sự suy nghĩ sâu sắc mang tính khoa học về giá trị của tiếng nói Việt Nam. Vị trí cũng như nội dung của nó đúng là câu nêu vấn đề (luận đề) trong bài nghị luận. Tác giả nhấn mạnh hai tính từ "đẹp" và "hay". Sau đó giải thích khái quát nghĩa của hai nét đẹp và hay của tiếng Việt: “... một thứ tiếng hài hòa về mặt âm hưởng, thanh điệu” (tức là nói về từ vựng), tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu (tức là nói về cú pháp), có đầy đủ khả năng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng của người Việt Nam - tức là đánh giá vai trò, hiệu quả, tác dụng trong cuộc sống của tiếng Việt. Mạch văn trôi chảy, dồn dập, nếu đọc nhanh, đọc lướt, chúng ta khó nắm bắt các luận điểm, các ý tưởng của người viết. Văn phong khoa học là như thế, vần ngắn gọn, ý hàm súc.

Sau đó, nhà văn đã tập trung chứng minh sự giàu đẹp và phong phú của tiếng Việt trên các mặt ngữ âm, từ vựng và cú pháp: “Tiếng Việt là một thứ tiếng giàu chất nhạc”; “rất rành mạch trong lối nói, rất uyển chuyển trong câu kéo, rất ngon lành trong những câu tục ngữ”; “gồm một hệ thống nguyên âm và phụ âm khá phong phú”; “là phương tiện trao đổi tình cảm, ý nghĩ giữa người với người”; “có những khả năng dồi dào về phấn cấu tạo từ ngữ cũng như hình thức diễn đạt”; “từ vựng tiếng Việt qua các thời kỳ diễn biến của nó tăng lên mỗi ngày một nhiều”; “ngữ pháp cũng dần dần trà nên uyển chuyển”; “không ngừng đặt ra những từ mới, những cách nói mới”. Với những dẫn chứng trên, Đặng Thai Mai đã làm rõ được sự giàu đẹp của tiếng Việt trên các phương diện. Từ đó tác giả đưa ra một kết luận cuối cùng: “Cấu tạo tiếng Việt với khả năng thích ứng với hoàn cảnh là một chứng cứ về sức sống của nó”.

Bài văn sử dụng phương thức nghị luận, chủ yếu dùng lí lẽ và dẫn chứng để khẳng định sự giàu đẹp của tiếng Việt. Tác giả Đặng Thai Mai đã sử dụng cách chứng minh trực tiếp và gián tiếp để làm rõ cái hay, cái đẹp của tiếng Việt. Tác giả không chỉ trực tiếp phân tích, bình luận và giải thích để làm rõ sự phong phú, giàu đẹp của tiếng Việt mà đồng thời còn đưa ra các ý kiến, nhận định, các lời bình luận của người nước ngoài về tiếng Việt để tạo ra sự khách quan và tăng sức thuyết phục cho bài văn.

Như vậy, đoạn trích “Sự giàu đẹp của tiếng Việt” của Đặng Thai Mai đã chứng minh được sự giàu có và đẹp đẽ của tiếng Việt trên nhiều phương diện: ngữ âm, từng vựng và ngữ pháp.

------Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp------

 

NONE

ERROR:connection to 10.20.1.101:9312 failed (errno=111, msg=Connection refused)
ERROR:connection to 10.20.1.101:9312 failed (errno=111, msg=Connection refused)
AANETWORK
 

 

YOMEDIA
AANETWORK
OFF