YOMEDIA
NONE

Soạn bài Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận - Ngữ văn 12

Hướng dẫn soạn bài Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận giúp các em học sinh phát hiện ra và sửa các lỗi thường gặp trong lập luận để tránh lặp lại những lỗi đó trong quá trình làm văn. Ngoài ra để làm phong phú thêm kiến thức cho bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài soạn Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận tóm tắt.

 

2. Tóm tắt nội dung bài học

  • Khi viết văn nghị luận, nên chú ý tránh một số lỗi:
    • Nêu luận điểm trùng lặp hoặc không rõ ràng, không phù hợp với bản chất vấn đề cần giải quyết.
    • Nêu luận cứ thiếu chính xác, thiếu chân thực, không đầy đủ, không liên quan mật thiết đến luận điểm cần trình bày, trùng lắp hoặc quá rườm rà.
    • Lập luận mâu thuẫn, luận cứ không phù hợp với luận điểm.

3. Soạn bài Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận

Câu 1: Phát hiện lỗi về luận điểm trong các đoạn văn sau và sửa lại cho đúng.

a. Cảnh vật trong bài thơ thu điếu của Nguyễn Khuyến thật là vắng vẻ. ngõ trúc quanh co, sóng nước gợn tí, lá vàng đưa vèo, chiếc thuyền bé teo teo…Cảnh vật dường như ngưng đọng, im lìm. Bởi vậy nét bút của Nguyễn Khuyến đã tạo dựng thành công cảnh sắc im ắng ấy.

  • Lỗi: Luận điểm nêu chưa rõ, nội dung có sự trùng lặp, không có sự nhấn mạnh hay phát triển ý, thể hiện ở 3 câu văn:
    • Cảnh vật...thật là vắng vẻ
    • Cảnh vật ngưng đọng, im lìm
    • Cảnh sắc im ắng
  • Sửa lại:

→ Nét bút của Nguyễn Khuyến đã tạo dựng thành công cảnh sắc của bức tranh Thu điếu. Cảnh vật trong bài thơ hiện lên thật vắng vẻ, tĩnh lặng. Ao thu lạnh lẽo, chiếc thuyền câu bé tẻo teo, sóng nước gợn tí, lá vàng khẽ đưa vèo, ngõ trúc vắng teo, tầng mây lơ lửng... cho đến cả người ngồi câu cũng dường như bất động. Đúng là cảnh sắc mùa thu ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, quê hương của nhà thơ: một cảnh thu tĩnh lặng, trong sáng; đượm buồn như tâm hồn thanh cao, đầy suy tư của thi nhân trước thời cuộc đất nước lúc bấy giờ.

b.                                                                            

  “Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.”

Người làm trai thời xưa luôn mang theo bên mình món nợ công danh, mang theo khao khát “vinh quy bái tổ”, “chức cao vọng trọng” để làm rạng danh tổ tiên, để mở mày mở mặt với thiên hạ… Phạm Ngũ Lão mang theo bên mình món nợ công danh, nhưng qua hai câu thơ của ông có thể thấy cách nhìn, hoài bão và khao khát của ông cao hơn, xa hơn hẳn kẻ tầm thường. Theo ông, người làm trai phải trả món nợ công danh để không hổ thẹn với người đi trước mình, những người xung quanh mình và quan trọng hơn là không hổ thẹn với chính bản thân mình.

  • Lỗi: Không nêu được luận điểm khái quát, diễn đạt trùng lặp, luẩn quẩn mà không trình bày được đúng bản chất của vấn đề. Luận điểm quan trọng cần nêu là ý nghĩa của nợ công danh theo quan điểm của riêng Phạm Ngũ Lão là gì?
  • Sửa lại: Thay luận điểm “Người làm trai thời xưa… mở mặt với thiên hạ” bằng luận điểm "Người làm trai thời xưa luôn mang theo bên mình món nợ công danh".

→ Người làm trai thời xưa luôn mang theo bên mình món nợ công danh. Phạm Ngũ Lão cũng mang theo bên mình món nợ công danh, nhưng qua hai câu thơ của ông có thể thấy cách nhìn, hoài bão và khao khát của ông cao hơn, xa hơn hẳn kẻ tầm thường. Theo ông, người làm trai phải trả món nợ công danh để không hổ thẹn với người đi trước mình, những người xung quanh mình và quan trọng hơn là không hổ thẹn với chính bản thân mình.

c. Văn học dân gian ra đời từ thời xa xưa nhưng đến nay vẫn tiếp tục phát triển. Nhắc đến nó, người ta hình dung ngay ra một cuốn sách bách khoa về cuộc sống. Tiếp nhận văn học dân gian là tiếp nhận tri thức hữu ích từ cuộc sống. Không cần lí lẽ, hình ảnh quá trừu tượng mà chính là kinh nghiệm từ cuộc sống phong phú sinh động đã khiến văn học dân gian có sức hấp dẫn. Ví như câu tục ngữ: “Cơn đằng đông vừa trông vừa chạy -Cơn đằng nam vừa làm vừa chơi”. Câu tục ngữ đã đúc kết được kinh nghiệm từ thực tế: Cơn mưa từ đằng đông kéo tới thì mưa rất nhanh. Trái lại, cơn mưa đằng nam kéo đến thì rất lâu mới có mưa. Câu tục ngữ này đã giúp ích rất nhiều cho bà con nông dân.

  • Lỗi: Luận điểm không rõ ràng, nhiều luận điểm nhưng không luận điểm nào được triển khai đầy đủ, chưa logic với luận cứ nêu ra → Luận điểm ở câu đầu không phù hợp với câu sau.
  • Sửa lại: Thay luận điểm "Văn học dân gian ra đời từ thời xa xưa nhưng đến nay vẫn tiếp tục phát triển" bằng luận điểm “Văn học dân gian là kho tàng kinh nghiệm của cha ông được đúc kết từ xưa.”

→​Văn học dân gian là kho tàng kinh nghiệm của cha ông được đúc kết từ xưa. Nhắc đến nó, người ta hình dung ngay ra một cuốn sách bách khoa về cuộc sống. Tiếp nhận văn học dân gian là tiếp nhận tri thức hữu ích từ cuộc sống. Không cần lí lẽ, hình ảnh quá trừu tượng mà chính là kinh nghiệm từ cuộc sống phong phú sinh động đã khiến văn học dân gian có sức hấp dẫn. Ví như câu tục ngữ: “Cơn đằng đông vừa trông vừa chạy - Cơn đằng nam vừa làm vừa chơi”. Câu tục ngữ đã đúc kết được kinh nghiệm từ thực tế: Cơn mưa từ đằng đông kéo tới thì mưa rất nhanh. Trái lại, cơn mưa đằng nam kéo đến thì rất lâu mới có mưa. Câu tục ngữ này đã giúp ích rất nhiều cho bà con nông dân.

Câu 2: Chỉ rõ các lỗi nêu luận cứ trong đoạn văn sau và sửa lỗi lại cho đúng.

a.                                                                                

“Nắng xuống, trời lên xanh bát ngát

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.

Thường khi nắng chiều đã xuống thì bầu trời trở nên xanh mênh mông bát ngát, cảnh đẹp của quê hương cũng không lấp được nỗi mênh mông trống trải cô đơn trong lòng người.

  • Lỗi:
    • Trích dẫn thơ sai: Nắng xuống, trời lên xanh bát ngát
    • Luận cứ mơ hồ, thiếu chính xác: khi chiều đã xuống thì bầu trời không thể “xanh mênh mông bát ngát” được.

⇒ Cần nêu rõ luận cứ quan trọng đó là sự tương đồng giữa hình tượng thiên nhiên và cảm xúc của nhà thơ- tâm trạng riêng của Huy Cận nhưng trong đó cũng hàm chứa tâm trạng chung của cái tôi thơ mới.

  • Sửa lại:

    “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

     Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.

Khi nắng xuống, trời lên thì bầu trời, lòng sông mở ra vừa cao, vừa sâu đến vô tận, cảnh đẹp của quê hương cũng không lấp được nỗi mênh mông trống trải cô đơn trong lòng người.

b. Trong lịch sử chống ngoại xâm, chúng ta thấy dân tộc ta anh hùng hào kiệt thời nào cũng có. Hai Bà Trưng phất ngọn cờ hồng khởi nghĩa đánh tan thái thú Tô Định, buộc hắn phải trốn vào đám loạn quân chạy về nước. Đất nước sau hơn hai thế kỉ bị phong kiến nước ngoài đô hộ đã giành được thắng lợi hoàn toàn.

  • Lỗi:
    • Việc nêu luận cứ không đầy đủ và chính xác. Đoạn văn đề cập đến “anh hùng hào kiệt thời nào cũng có” nhưng thực chất người viết chỉ nêu một ví dụ về một thời kì: Hai Bà Trưng đánh đuổi thái thú Tô Định.
    • Mặt khác, cuộc khởi nghĩa hai bà trưng thực chất chưa giành được “thắng lợi hoàn toàn”, giúp đất nước “sạch bóng quân thù”.
  • Sửa lại: Nên thêm các luận cứ để bổ sung cho luận điểm “dân tộc ta anh hùng hào kiệt thời nào cũng có”.

→Trong lịch sử chống ngoại xâm, dân tộc ta có nhiều anh hùng hào kiệt xuất hiện. Từ Bà Trưng, Bà triệu phất cờ khởi nghĩa. Lê Lợi lãnh đạo muôn dân bền bỉ kháng chiến hai mươi năm trời, buộc giặc Minh phải đầu hàng nhục nhã. Quang Trung trong chiến dịch hành quân thần tốc tiêu diệt 20 vạn quân Thanh.

c. Lịch sử dân tộc ta đã ghi lại biết bao nhiêu trang sử hào hùng với những tên tuổi sáng chói muôn đời. Ngô Quyền đánh tan quân xâm lược Nam Hán. Nguyễn Huệ đánh tan quân xâm lược nhà Thanh. Lê Lợi đại phá quân Minh. Ải Chi Lăng mãi là mồ chôn quân xâm lược. Đời Trần Hưng Đạo lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân Nguyên, giành lại nền độc lập cho đất nước. Cửa biển Bạch Đằng lập chiến công lẫy lừng non sông. Những tên tuổi đó mãi mãi sống cùng non sông đất nước.

  • Lỗi:
    • Việc nêu luận cứ không chính xác, thiếu tính hệ thống, logic và quá rườm rà. Luận điểm đưa ra là “những tên tuổi sáng chói muôn đời” (tên danh nhân) nhưng luận cứ nêu cả địa danh: ải Chi Lăng, của biển Bạch Đằng.
    • Mặt khác viết “đời Trần Hưng Đạo” dễ hiểu nhầm rằng Trần Hưng Đạo là một vị vua..
  • Sửa lại: Ngô Quyền → Trần Hưng Đạo  Lê Lợi  Nguyễn Huệ.

→ Lịch sử dân tộc ta đã ghi lại biết bao nhiêu trang sử hào hùng với những tên tuổi sáng chói muôn đời. Ngô Quyền đánh tan quân xâm lược Nam Hán. Trần Hưng Đạo lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân Nguyên, giành lại nền độc lập cho đất nước. Lê Lợi đại phá quân Minh. Nguyễn Huệ đánh tan quân xâm lược nhà Thanh.  Những tên tuổi đó mãi mãi sống cùng non sông đất nước.

Câu 3: Xác định các lỗi về cách thức lập luận trong các đoạn văn sau và sửa lại cho đúng.

a. Từ xưa, vẻ đẹp và số phận người phụ nữ luôn là một đề tài chủ đạo trong thơ văn. Trong nền văn học trung đại Việt Nam, nhiều tác giả đã viết về đề tài này như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Dữ, Đặng Trần Côn,… Nhưng người đã phản ánh một cách sâu sắc nhất bi kịch của người phụ nữ chính là Nguyễn Du.

  • Lỗi:
    • Trình bày luận cứ thiếu logic, lộn xộn. Hệ thống luận cứ không đủ làm sáng tỏ cho luận điểm chính.
    • Nguyễn Khuyến mới viết câu đối khóc vợ, hoặc cho cô Tư Hồng câu đối chứ chưa đặt ra số phận người phụ nữ (không nên đưa vào).
  • Sửa lại:

Từ xưa, vẻ đẹp và số phận người phụ nữ luôn là một đề tài chủ đạo trong thơ văn. Trong nền văn học trung đại Việt Nam, nhiều tác giả đã viết về đề tài này như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Dữ, Đặng Trần Côn,… Nhưng người đã phản ánh một cách sâu sắc nhất vẻ đẹp và số phận của người phụ nữ chính là Nguyễn Du.

b. Nam Cao viết nhiều về nông thôn. Lão Hạc ăn bả chó tự tử để tránh đói. Anh cu Phúc chết lặng trong xó nhà ẩm ướt, trước những đôi mắt “dại đi vì đói” của hai đứa con. Bà cái đĩ chết vì một bữa no, tức là một kiểu chết vì quá đói. Lại có cảnh đám cưới, nhưng cưới để chạy đói.

  • Lỗi: Lập luận có luận cứ không phù hợp với luận điểm. Luận điểm nêu vấn đề là đề tài nông thôn trong văn học Nam Cao: “Nam Cao viết nhiều về nông thôn”, nhưng các luận cứ chỉ đề cập đến cái đói của những người nông dân bất hạnh.
  • Sửa lại:

→ Trong các tác phẩm của mình Nam Cao thường viết nhiều về cái đói. Lão Hạc ăn bả chó tự tử để tránh đói. Anh cu Phúc chết lặng trong xó nhà ẩm ướt, trước những đôi mắt “dại đi vì đói” của hai đứa con. Bà cái đĩ chết vì một bữa no, tức là một kiểu chết vì quá đói. Lại có cảnh đám cưới, nhưng cưới để chạy đói.

c. Mùa thu là một đề tài gợi nhiều cảm hứng cho thi nhân. Chính vì thế, mùa thu đã là một thi đề quen thuộc trong thơ ca trung đại Việt Nam. Tinh tế và sâu lắng nhất phải kể đến cảnh thu với nỗi sầu muộn vô biên của Đỗ Phủ (Thu hứng). Còn trong thơ ca Việt Nam trung đại, Nguyễn Khuyến chính là nhà thơ của mùa thu làng quê với chùm thơ Thu vịnh, thu điếu, thu ẩm.

  • Lỗi: lập luận có luận cứ mâu thuẫn với luận điểm. Luận điểm nêu ra vấn đề: mùa thu trong thi ca (trung đại) Việt Nam nhưng có một luận cứ đã nhận xét, đánh giá về một tác giả nước ngoài (sai kiến thức): Tinh tế và sâu lắng nhất phải kể đến cảnh thu với nỗi sầu muộn vô biên của Đỗ Phủ (Thu hứng).
  • Sửa lại:

→ Mùa thu là đề tài gợi nhiều cảm hứng cho thi nhân. Ta biết đến Đỗ Phủ với bức tranh thu nhuốm nỗi sầu vô biên, một Nguyễn Du với rừng phong thu đỏ nhuộm màu chia li. Nhưng có lẽ ấn tượng và sâu sắc nhất phải kể đến Nguyễn Khuyến – nhà thơ của làng cảnh Việt Nam với chùm thơ thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh.

Để nắm được nội dung bài học vững hơn, các em có thể tham khảo bài giảng Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận.

NONE
AANETWORK
 

 

YOMEDIA
ATNETWORK
ON