YOMEDIA
NONE

Nghị luận văn học đoạn trích Cảnh ngày xuân.

Nghị luận văn học đoạn trích Cảnh ngày xuân.

Theo dõi Vi phạm
ADSENSE

Trả lời (2)

  • Cảm hứng nhân đạo và vẻ đẹp ngôn từ của truyện thơ này đã chinh phục trái tim bao thế hệ bạn đọc trong gần hai trăm năm qua. Đọc đoạn trích "Cảnh ngày xuân", chúng ta càng cảm phục bút pháp miêu tả cảnh vật giàu chất tạo hình và man mác xúc cảm của tác giả.

    Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã gợi tả khung cảnh mùa xuân tuyệt đẹp:

    Ngày xuân con én đưa thoi

    Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi

    Qua việc miêu tả không gian, thời gian nghệ thuật, tác giả đã gợi lên một khung cảnh khoáng đạt và tràn trề sức sống. Cách nói dân gian “thời gian thấm thoắt thoi đưa” đã nhập hồn vào thơ ca Nguyễn Du để ông sáng tạo nên một câu thơ vừa miêu tả không gian, vừa gợi tả thời gian. Chim én được xem là loài chim biểu tượng của mùa xuân. Những cánh én chao liệng như “thoi đưa” ấy đã gợi lên một bầu trời bao la, thoáng đãng đầy sức xuân. Đến câu thơ tiếp theo, tâm trạng tiếc nuối ấy đã hiện lên thật rõ. “Thiều quang” nghĩa là ánh sáng đẹp, ánh sáng ấm áp của mùa xuân, cũng là ẩn dụ để chỉ ngày xuân. Cách tính thời gian như thế thật là ý vị và nên thơ: tiết trời trong sáng, đẹp đẽ của chín mươi ngày xuân nay “đã ngoài sáu mươi” rồi, tức là đã sang đầu tháng Ba rồi. Từ “đã ngoài” ở đây kết hợp vời từ “đưa thoi” ở trên đã gợi lên trong lòng người đọc một sự tiếc nuối rằng mùa xuân sao đi qua nhanh thế. Nguyễn Du nhớ mùa xuân ngay trong mùa xuân, tưởng đó là một nghịch lí, nhưng nó lại có thật. Hơn hai trăm năm sau, Xuân Diệu lại một lần nữa cảm thấy như thế: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa / Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.” (Vội vàng). Làm sao không tiếc mùa xuân được cơ chứ khi vào lúc này, xuân đã hết dư vị của mùa đông nhưng vẫn chưa ngấp nghé vào hạ nên khung cảnh rất đẹp, rất xuân:

    Cỏ non xanh tận chân trời

    Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

    Bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân đã được vẽ nên bằng những nét phác họa, chấm phá tài tình của văn thơ cổ. Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ gợi hình gợi cảm để vẽ nên bức tranh ấy: “non” (sự mới mẻ, đổi thay của đất trời), “xanh” (sự sống, đâm chồi nảy lộc), “trắng” (tinh khôi, trong sáng, dịu dàng),… Những từ ngữ ấy vừa đem khí xuân đến tràn đầy trong từng lời thơ, vừa giàu chất tạo hình tới nỗi ta có cảm tưởng như trong thơ có họa. Lấy cảm hứng từ hai câu thơ cổ của Trung Quốc: “Phương thảo liên thiên bích / Lê chi sổ điểm hoa”, tác giả chỉ thêm vào hai từ “xanh”, “trắng” mà đã khiến cho sắc trắng của hoa lê nổi bật lên trên cái nền “xanh tận chân trời”, gợi lên vẻ đẹp trong sáng, thanh khiết và khoáng đạt của mùa xuân. Lời thơ tưởng như chiếc cọ của người họa sĩ đang phối sắc cho từng đường nét của bức vẽ. Câu thơ tám chữ vốn có nhịp đôi, nhịp chẵn bỗng chuyển sang nhịp 3/5. Từ nhịp điệu bằng phẳng, quen thuộc, cách ngắt nhịp tài tình mang đầy dụng ý ấy của Nguyễn Du khiến câu thơ xôn xao với cái thần rất mới, rất lạ. Bức tranh ấy đã đẹp, nay lại được đại thi hào phả hồn vào đó bằng một chữ “điểm”. Có thể nói từ ấy chính là nhãn tự của cả đoạn trích, vừa làm câu thơ sống động hơn, vừa là nét vẽ hoàn chỉnh của bức tranh xuân. Chỉ cần một chút đảo ngữ ở “trắng điểm” và “điểm trắng” thôi đã đủ để nâng câu thơ lên một tầm cao mới. Tả mùa xuân đẹp và sống động như thế, hật không còn từ ngữ nào để nói lên sự tài tình trong bút pháp miêu tả gợi hình gợi cảm của Tố Như.

    Tiếp nối bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp ấy, Nguyễn Du đưa người đọc đến với một khung cảnh tươi đẹp không kém – cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh. Mở đầu cho bức tranh ấy là hai câu thơ giới thiệu khái quát về thời gian cũng như hoạt động của con người:

    Thanh minh trong tiết tháng Ba

    Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh

    Tiết Thanh minh là dịp để mọi người đi viếng thăm, quét dọn, sửa sang và cúng bái, khấn nguyện trước phần mộ những người đã khuất. Từ lâu, đây đã là một phong tục cổ truyền của dân tộc ta. Và tất nhiên, sau lễ là hội, hội “đạp thanh”, tức là giẫm lên cỏ xanh mà đi chơi xuân. “Tảo mộ" là dịp để ta tìm lại những ký ức xa xưa, nối lại mối dây liên hệ giữa người đã khuất với người còn sống. Còn “đạp thanh” lại gợi lên cảnh các chàng trai, cô gái gặp gỡ, làm quen và rất có thể dẫn đến những sợi tơ hồng kết duyên mai sau. Bên cạnh điệp từ “là”, cặp tiểu đối “lễ là tảo mộ” – “hội là đạp thanh” được đặt cạnh nhau trong một câu thơ không chỉ nói lên sự nối tiếp liên tục của những tươi vui, nhộn nhịp, rộn ràng trong ngày lễ hội, mà còn muốn nói một điều gì hơn thế. Nguyễn Du đã gửi vào đó những suy ngẫm về khát khao, hy vọng của những người đi chơi xuân, hay cụ thể hơn – của Thúy Kiều về những điều tốt đẹp của cuộc đời phía trước. Và với suy nghĩ ấy, chị em Thúy Kiều hòa mình vào dòng người tấp nập đi trẩy hội:

    Gần xa nô nức yến anh

    Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân

    Dập dìu tài tử giai nhân

    Ngựa xe như nước, áo quần như nêm

    Ở đây, một lần nữa ta lại được gặp nghệ thuật miêu tả ước lệ. Mùa xuân là lúc chim yến , chim oanh tụ họp lại ríu rít bay lượn trên không trung. Tác giả đã vận dụng hình ảnh ấy dưới cách nói ẩn dụ “nô nức yến anh” để gợi tả hình ảnh những đoàn người đi du xuân trong không khí rộn ràng, đông vui. Xuân không chỉ về trong thiên nhiên mà còn tràn ngập trong lòng người. Các tính từ “gần xa”, “nô nức” đã đặc tả cảnh người người khắp nơi cùng tụ hội lại trong tâm trạng náo nức, vui tươi của lễ hội. Đó cũng chính là tâm trạng của chị em Thúy Kiều khi: “Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân”. Sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che”, những cô thiếu nữ như họ ít có dịp được tham gia một cuộc vui nhộn nhịp như lần này, nên dù chưa đến hội, hai chị em đã như mở hội trong lòng. Động từ “sắm sửa” đã diễn tả được sự háo hức, trông mong ấy của họ. Rất tự nhiên, họ hòa vào dòng người nườm nượp những nam thanh nữ tú. Dưới cách nhìn phơi phới xuân xanh của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã biến một cảnh lễ hội tưởng như năm nào cũng có thành một ấn tượng khó phai trong mắt người đọc. Nếu như ở hai câu thơ trước có “yến anh” thì ở hai câu sau cũng rất xứng với “tài tử giai nhân”, làm bật lên cảnh những chàng trai cô gái phong lưu, thanh lịch, áo quần tươi thắm trong buổi hội xuân đang “Gặp tuần đố lá, thỏa lòng tìm hoa”. Từ láy “dập dìu” gợi lên từng đoàn, từng đoàn người đi lại tấp nập, đông đúc nhưng vẫn rất uyển chuyển, nhịp nhàng như những đợt sóng. Nhịp điệu ấy làm chậm lại dòng chảy trong “ngựa xe như nước”, và cho dù “áo quần như nêm” nhưng lễ hội lại không chật cứng mà vẫn có một điều gì đó rất khoan thai trong từng chiếc xe, từng bước chân. Ấy là sự khoan thai, thơ mộng và trữ tình của tâm hồn tuổi trẻ đang say sưa trong không khí mùa xuân. Hai hình ảnh so sánh được đặt liên tiếp nhau trong câu thơ càng khiến cho khung cảnh ấy thêm sống động. Nguyễn Du đã vô cùng khéo léo trong việc biến đổi phép đối, khi thì dồn lại giữa “tài tử” và “giai nhân”, khi thì tách giãn “ngựa xe như nước” và “áo quần như nêm”, khi ẩn khi hiện một sức hút khó tả và rất riêng của cảnh ngày xuân. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng hàng loạt những từ có hai âm tiết thuộc nhiều từ loại khác nhau để miêu tả không khí lễ hội thật rộn rã: danh từ (yến anh, chị em, tài tử, giai nhân), động từ (sắm sửa, dập dìu), tính từ (gần xa, nô nức). Trong đó vừa có từ ghép, vừa có từ láy, tự sự hòa vào với miêu tả, làm sống lại trước mắt người đọc một ngày hội đậm chất trữ tình, khiến cho ta cũng như ngây ngất trong không khí tràn đầy sức xuân ấy. Và tất nhiên, tả lễ hội trong tiết Thanh minh thì không thể thiếu một phong tục rất quen thuộc:

    Ngổn ngang gò đống kéo lên

    Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay

    Phong tục cổ truyền đã có từ nghìn xưa được Nguyễn Du đưa vào câu thơ thật sinh động. “Ngổn ngang gò đống” không chỉ gợi tả cảnh những ngôi mộ mà còn muốn nói đến những đống tro tàn vương vãi khắp nơi trên mặt đất. Đi tảo mộ, không thể không rắc thoi vàng vó, đốt tiền vàng mã, để tưởng nhớ những người đã khuất. Trong cảnh tượng khói bay nghi ngút ấy như âm ỉ cháy những lời thì thầm vọng về từ quá khứ, từ ông bà tổ tiên. Sự cách trở âm dương tưởng chừng như bị xóa nhòa, quá khứ được kéo gần hơn tới hiện tại trong không gian thiêng liêng đầy thành kính ấy. Không hề có sự nặng nề, âm u tưởng chừng như luôn chập chờn đâu đó khi ta nhắc đến mồ mả, mà thay vào đó là một nét đẹp rất thanh tao của văn hóa phương Đông về nghĩa tình với những người đã khuất. Có thể trong thời buổi hiện đại ngày nay, phong tục ấy được xem là sự mê tín cổ hủ, nhưng giá trị nhân văn trong những vần thơ của Tố Như vẫn làm ta xúc động về đời sống tâm linh của người xưa. Vẫn là bút pháp gợi hình gợi cảm, nhưng bằng hàng loạt từ ngữ miêu tả, Nguyễn Du đã tái hiện lại cảnh "hội" mùa xuân thật sống động, rộn ràng và tươi vui nhưng cũng không làm mờ đi chữ "lễ" qua những phong tục cổ truyền của dân tộc.

    Buổi du xuân vui vẻ cũng dã tới chỗ phải nói lời tạm biệt. Vẫn là cảnh mùa xuân, vẫn là không khí của ngày hội lễ, nhưng bây giờ là giây phút cuối ngày:

    "Tà tà bóng ngả về tây,

    Chị em thơ thẩn dang tay ra về

    Bước dần theo ngọn tiểu khê

    Lần xem phong canh có bề thanh thanh

    Nao nao dòng nuóc uốn quanh

    Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang."

    Nếu câu thơ mở đầu của "Cảnh ngày xuân" chan hòa ánh sáng "thiều quang" thì đến đây, hoàng hôn dường như bắt đầu nhuốm dần xuống phong cảnh và con người. Hội đã hết, ngày đã tàn nên nhịp thơ không còn cái rộn ràng, giục giã mà trái lại thật chậm rãi, khoan thai. Cảnh vật vì thế mang cái vẻ nên thơ, dịu êm, vắng lặng trong ánh nắng nhạt dần. Dòng khe có chiếc cầu nho nhỏ cuối ghềnh tạo thành đường nét thể hiện linh hồn của bức tranh một buổi chiều xuân. Nhịp chân có chút tâm tình man mác nên "thơ thẩn" và đến đây là "bước dần", chẳng có gì nao nức, vội vàng. Các từ láy "tà tà", "thanh thanh", "nho nhỏ", "nao nao" góp phần làm nên sự yên ắng và nỗi buồn của cảnh vật, của con người. Cảnh vật và thời gian được miêu tả bằng bút phá ước lệ cổ điển nhưng vẫn gợi cho người đọc cảm giác gần gũi, thân quen vì nó đã thấm hồn dân tộc, mang bóng dáng cảnh sắc quê hương Việt Nam.Rõ ràng, cảnh ở đây được nhìn qua tâm trạng nhân vật tham gia vào lễ hội. Hai chữ "nao nao" (Nao nao dòng nước uốn quanh) đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật. Dòng nước nao nao, trôi chậm lưu luyến bên chân cầu nho nhỏ, phải chăng cũng là nỗi lưu luyến, tiếc nuối của lòng người khi ngày vui chóng qua? Nguyễn Du đã từng viết: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?". Vì vậy, khi vào lễ hội, người vui thì cảnh sắc rộn ràng tươi mới. Lúc lễ hội tan rồi, người về sao tránh khỏi sự xao xuyến, cảnh sắc sao tránh khỏi màu ảm đạm! Dường như có một nỗi niềm man mác, bâng khuâng thấm sâu, lan tỏa trong tâm hồn vốn đa tình, đa cảm như Thúy Kiều. Và ở sáu dòng cuối này, Nguyễn Du không chỉ nhằm nói tâm trạng buồn tiếc khi lễ hội vừa tàn, mà hình như, ông chuẩn bị đưa nhân vật của mình vào một cuộc gặp gỡ khác, một thế giới khác. Như ta đã biết, ngay sau buổi Thanh minh, Nguyễn Du đã sắp đặt để Thúy Kiều gặp Đạm Tiên và Kim Trọng. Vì thế, cảnh vật trong hoàng hôn này cũng là một dự báo, một linh cảm cho đoạn trường mà đời kiều sắp phải bước qua.

    Nguyễn Du đã cho ta thấy một ngày xuân nô nức, vui tươi. Nghệ thuật tả cảnh, tả tình của ông như thế thật khéo và cách chuyển ý cũng thật tinh tế, tự nhiên.

      bởi thi trang 15/01/2020
    Like (0) Báo cáo sai phạm
  • YOMEDIA

    Video HD đặt và trả lời câu hỏi - Tích lũy điểm thưởng

  •    Nếu như trong đoạn trích "Chị em Thúy Kiều", người đọc thấy được tài năng nghệ thuật tả người của Nguyễn Du trong việc khắc họa bức chân dung duyên dáng, sắc tài toàn vẹn của hai chị em Vân - Kiều thì đến với đoạn trích "Cảnh ngày xuân", người đọc một lần nữa lại thấy được nghệ thuật tả cảnh, tả tình độc đáo của Nguyễn Du trong bức tranh mùa xuân thấm đượm tâm hồn con người.

       Đoạn trích "Cảnh ngày xuân" nằm ngay sau đoạn tả tài, tả sắc của chị em Thúy Kiều. Qua đoạn thơ, Nguyễn Du dựng lên bức tranh thiên nhiên và lễ hội mùa xuân trong tiết Thanh minh thật tươi sáng, sống động. Đây là đoạn thơ tiền đề, dẵn dắt hoàn cảnh để rồi trong cuộc du xuân của Kiều, Kim – Kiều đã gặp nhau rồi tự do đính ước...

       Trước hết, bốn câu thơ mở đầu, với nghệ thuật chấm phá độc đáo tả ít gợi nhiều, Nguyễn Du đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, giàu sức xuân:

       Ngày xuân con én đưa thoi

       Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi

       Cỏ non xanh tận chân trời

       Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

       Hai câu thơ đầu vừa có sức gợi về thời gian, lại vừa có sức gợi về không gian. Ngày xuân thấm thoát trôi qua thật nhanh như thoi đưa. Cả mùa xuân có chín mươi ngày thì nay đã qua tháng giêng, tháng hai và bước sang tháng thứ ba. Ánh sáng của ngày xuân nhẹ nhàng, trong veo, lan tỏa, trải dài khắp muôn nơi. Trên nền trời cao là những đàn chim én mùa xuân đang chao nghiêng bay lượn. Dưới mặt đất là một thềm cỏ xanh non bất tận chạy ra xa tít tắp. Động từ “tận” làm cho không gian mùa xuân như đang giãn nở, ngày càng mở rộng ra biên độ và bao trùm cả không gian xuân là một màu xanh biếc của cỏ lá. Trên nền cỏ xanh tươi ấy là những bông hoa lê điểm vài sắc trắng gợi lên sự tinh khôi, mới mẻ. Biện pháp đảo ngữ có tác dụng tô đậm thêm và làm nổi bật hơn sức trắng của hoa lê trên nền cỏ mùa xuân. Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn gọn nhưng dưới ngòi bút và cách miêu tả thần tình, Nguyễn Du đã tạo nên một bức tranh xuân tinh khôi, trong trẻo, thanh khiết và giàu sức sống, mang đậm hơi thở của hồn xuân đất Việt.

       Tám câu thơ tiếp theo, là khung cảnh lễ - hội trong tiết thanh minh mùa xuân. Ở hai câu thơ đầu, tác giả đã giới thiệu khái quát về hai hoạt động chính của mùa xuân: Lễ tảo mộ và hội đạp thanh trong tiết tháng ba mùa xuân.

       Thanh minh trong tiết tháng ba

       Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh

       Lễ tảo mộ là một nét đẹp văn hóa, biểu trưng cho đạo lí biết ơn, tri ân tiên tổ bằng việc sửa sang phần mộ của gia đình người thân đã khuất. Sau khi lễ hội tảo mộ diễn ra xong thì đây cũng là cơ hội cho những trai tài gái sắc được gặp gỡ, hẹn hò, giao duyên trong lễ hội đạp thanh. Không khí tưng bừng, nhộn nhịp và tấp nập trong những ngày lễ hội mùa xuân đã được Nguyễn Du miêu tả qua hệ thống những từ ngữ giàu tính tạo hình và biểu cảm:

       Gần xa nô nức yến anh

       Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân

       Dập dìu tài tử giai nhân

       Ngựa xe như nước áo quần như nêm.

       Từ ghép (gần xa, yến anh, chị em, ngựa xe, áo quần) kết hợp với các từ láy (nô nức, dập dìu, sắm sửa) có tác dụng gợi nên không khí hội xuân hết sức đông vui, rộn ràng. Hình ảnh ẩn dụ: “nô nức yến anh” gợi lên hình ảnh từng đoàn người nhộn nhịp đi du xuân như chim én, chim oanh xôn xao, náo nức, tình tứ. Hình ảnh so sánh: “Ngựa xe như nước; áo quần như nêm" miêu tả những đoàn người trong hội xuân rất nhộn nhịp; từng đoàn, từng đoàn người chen vai ních cánh đi trẩy hội, đông vui, rộn ràng

       Tóm lại: Bằng việc sử dụng các biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh, kết hợp với hệ thống những từ ngữ giàu tính chất tạo hình và biểu cảm, nhà thơ đã gợi lên một không khí mùa xuân vừa đông vui, tấp nập; lại vừa tình tự và duyên dáng khi có sự góp mặt của các nam thanh nữ tú, trai tài, gái sắc.

       Trong ngày hội xuân ấy không chỉ có niềm vui mà còn có những khoảng lặng của lễ tảo mộ trong hai câu thơ:

       Ngổn ngang gò đống kéo lên

       Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay

       Nếu Hội đạp thanh hiện lên với không khí hết sức tươi vui, rộn rã, náo nức thì Lễ tảo mộ lại gợi một chút đượm buồn và hướng tới đạo lí tốt đẹp ở đời qua hành động rắc thoi vàng và đốt vàng mã cho người đã khuất. Đó là truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” và lối sông ân nghĩa, thủy chung tốt đẹp của văn hóa dân tộc.

       Qua tám câu thơ, tác giả đã khắc họa thành công truyền thống văn hóa lễ hội mùa xuân của dân tộc. Đồng thời, đây cũng là một dụng ý nghệ thuật sâu sắc của tác giả: mượn ngày hội lớn làm bối cảnh, tiền đề để miêu tả cuộc gặp gỡ đặc biệt giữa Thúy Kiều và Kim Trọng.

       Đến sáu câu thơ cuối, bằng nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình", Nguyễn Du đã miêu tả thời điểm kết thúc của ngày hội xuân thấm đượm hồn người một chút buồn xao xuyến. Đó là khung cảnh chị em Kiều du xuân trở về:

       Tà tà bóng ngả về tây

       Chị em thơ thẩn dan tay ra về

       Bước dần theo ngọn tiểu khê

       Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh

       Nao nao dòng nước uốn quanh

       Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

       Cảnh vẫn mang cái dịu nhẹ, êm đềm của ngày xuân nhưng bóng dương đã “tà tà ngả về tây”. Khung cảnh náo nức, tưng bừng của ngày hội xuân cũng đã kết thúc. Trong lòng người xen lẫn những xúc cảm bâng khuâng xao xuyến. Cảnh vật không gian đã được co gọn lại trong bước chân của người ra về, của dòng nước tiểu khê và chiếc cầu nho nhỏ. Những từ láy: “nao nao, tà tà, thơ thẩn, thanh thanh” không chỉ có tác dụng miêu tả trạng thái của cảnh vật mà còn biểu lộ tâm trạng của con người: lưu luyến, bịn rịn, bâng khuâng hoàn toàn đối lập với không khí với ngày lễ hội mùa xuân vào buổi sáng sớm. Đồng thời gieo vào lòng người đọc những linh cảm về một điều sắp sửa xảy ra, như là sự dự báo trước cuộc gặp gỡ nấm mồ Đạm Tiên và sự gặp gỡ của hai con người trai tài gái sắc: Thúy Kiều – Kim Trọng. Tóm lại, với bút pháp tả cảnh ngụ tình, kết hợp với việc sử dụng hệ thống những từ láy, hình ảnh giàu tính tạo hình và biểu cảm, tác giả đã khắc họa bức tranh chiều tà trong ngày hội xuân thấm đượm tâm trạng của con người nhân vật. Qua đó cho thấy được tài năng miêu tả tâm trạng con người của Nguyễn Du.

       Nếu như trong "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân, tác giả chỉ có đúng một câu dẫn dắt "một hôm nhằm vào tiết Thanh minh..." để rồi sau đó kể về cuộc gặp gỡ nấm mồ Đạm Tiên và Kim Trọng nhưng Nguyễn Du đã dựa vào đó vẽ lên một bức tranh xuân thắm bằng thơ, với vẻ đẹp riêng, mang đậm cảnh xuân đất trời nước Việt. Như vậy, qua đoạn trích "Cảnh ngày xuân", chúng ta thấy được tài năng nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình" hết sức độc đáo của Đại thi hào Nguyễn Du. Dưới ngòi bút sáng tạo thần tình,cùng những dung cảm nghệ thuật độc đáo về mùa xuân, Nguyễn Du đã phác họa thành công một bức tranh thiên nhiên, lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng và sống động, thấm đượm lòng người.

      bởi Vũ Minh Khang 03/03/2020
    Like (0) Báo cáo sai phạm

Nếu bạn hỏi, bạn chỉ thu về một câu trả lời.
Nhưng khi bạn suy nghĩ trả lời, bạn sẽ thu về gấp bội!

Lưu ý: Các trường hợp cố tình spam câu trả lời hoặc bị báo xấu trên 5 lần sẽ bị khóa tài khoản

Gửi câu trả lời Hủy
 
NONE

Các câu hỏi mới

AANETWORK
 

 

YOMEDIA
AANETWORK
OFF