YOMEDIA

Phân tích bài Cầu Long Biên - chứng nhân lịch sử của Thúy Lan

Tải về
 
NONE

Mời các em cùng tham khảo tài liệu văn mẫu Phân tích bài Cầu Long Biên - chứng nhân lịch sử của Thúy Lan dưới đây. Tài liệu nhằm giúp các em có thêm kiến thức về Cầu Long Biên qua hồi kí của Thúy Lan. Đồng thời, hiểu được những giai đoạn lịch sử của dân tộc được thể hiện khách quan trong văn bản. Chúc các em học tập thật tốt!

ADSENSE

1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý

2. Dàn bài chi tiết

2.1. Mở bài

- Giới thiệu về thể loại văn bản nhật dụng (những bài viết có nội dung gần gũi, bức thiết đối với cuộc sống trước mắt của con người và cộng đồng xã hội,…)

- Giới thiệu về văn bản “Cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử” (xuất xứ, khái quát giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật,…)

2.2. Thân bài

a. Khái quát cầu Long Biên

- Vị trí: cầu bắc ngang sông Hồng

- Độ dài: 2290m

- Trọng lượng: 17000 tấn

- Hình dáng: như một dải lụa uốn lượn vắt ngang qua sông Hồng

→ Miêu tả thông qua so sánh với những số liệu chính xác

→ Cầu Long Biên là cây cầu to, đẹp và đồ sộ

b. Cầu Long Biên – chứng nhân của lịch sử

- Quá trình xây dựng cầu:

   + Xây dựng từ năm 1898 đến năm 1902 do kĩ sư người Pháp thiết kế

   + Khi mới khánh thành, cầu mang tên Toàn quyền Pháp ở Đông Dương Đu-me

   + Được xây dựng bằng bao mồ hôi, xương máu của nhân dân

   + Đánh đập dã man, hơn 1000 nông phu bị chết

→ Gợi nhắc một thời thực dân áp bức, nô lệ và bạo tàn, bất công

- Sau năm 1945:

   + Cầu được đổi tên là cầu Long Biên

   + Cầu chứng kiến người dân thủ đô cùng trung đoàn thân yêu ra đi bí mật

   + Chứng kiến cảnh đất trời bốc lửa, thành đô nghi ngút cháy

→ Cầu Long Biên chứng kiến sự tàn phá của chiến tranh và sự anh dũng, son sắt, quyết tâm bảo vệ Hà thành của người dân thủ đô

- Hòa bình sau chống Pháp:

   + Cầu chứng kiến màu xanh của bãi mía, nương dâu, bãi ngô, vườn chuối

   + Chứng kiến những ánh đèn mọc lên như sao sa

→ Cầu chứng kiến sự hồi sinh của Hà Nội trù phú, tươi đẹp, quyến rũ

- Những năm kháng chiến chống Mĩ:

   + Cầu bị bom mĩ đánh phá nhiều lần

   + Cầu rách nát giữa trời, tả tơi như ứa máu

   + Nhân dân ta hàn cầu, bảo vệ cầu

→ Cầu oằn mình chịu đựng những đau thương, mất mát, bạo tàn mà Mĩ gây nên

- Những năm tháng lũ lụt: cầu dẻo dai, vững chắc chững kiến người dân chống chọi với sự tàn phá của thiên nhiên

⇒ Cầu chứng kiến sự trưởng thành của một dân tộc kiên cường, bất khuất, dũng cảm, cần lao

c. Cầu Long Biên trong đời sống hiện tại

- Hiện tại cầu Long Biên đã rút về vị trí khiêm nhường

- Tương lai: trở thành điểm dừng chân của du khách năm châu khi đến thăm Việt Nam

⇒ Cầu Long Biên mãi mãi có giá trị vô giá

2.3. Kết bài

- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản:

   + Nội dung: Hơn một thế kỉ qua, cầu Long Biên đã chứng kiến bao sự kiện lịch sử hào hùng, bi tráng của Hà Nội. Hiện nay, tuy đã rút về vị trí khiêm nhường nhưng cầu Long Biên vẫn mãi mãi trở thành một chứng nhân lịch sử, không chỉ riêng của Hà Nội mà của cả đất nước.

   + Nghệ thuật: so sánh, nhân hóa, từ ngữ giàu cảm xúc,…

3. Bài văn mẫu

Đề bài: Phân tích bài Cầu Long Biên - chứng nhân lịch sử

Gợi ý làm bài

3.1. Bài văn mẫu số 1

Cầu Long Biên - Chứng nhân lịch sử là bài bút kí mang nhiều yếu tố hồi kí của Thúy Lan. Bài văn ghi lại lịch sử của một cây cầu, từ thời khởi đầu xây dựng, và sự tồn tại của nó trước thời gian và bao biến cố lịch sử xảy ra giữa lòng Hà Nội.

Đoạn mở đầu là những dòng lịch sử khái quát về sự hình thành của cây cầu. Nơi xây dựng: “sông Hồng, Hà Nội”. Người thiết kế: kiến trúc sư Ép-phen (G. Eiffel). Năm xây dựng: 1898. Thời gian thi công và hoàn thành: “sau bốn năm”. Sau những câu văn có tính liệt kê số liệu, nguồn gốc ấy là những câu văn có ý nghĩa so sánh cầu Long Biên với các chiếc cầu mới xây dựng sau này như cầu Thăng Long, Chương Dương nhằm xác định: “Cầu Long Biên như một nhân chứng sống động, đau thương và anh dũng của thủ đô Hà Nội”. Đây là giá trị tinh thần khắc sâu vào tâm trí của người Hà Nội, của bao người khác.
Đoạn văn kế tiếp nêu những thông số giải thích về cấu trúc của chiếc cầu và nêu ý nghĩa của nó. Độ dài của cầu là 2290 mét, nặng tới 17 nghìn tấn. Vào lúc ấy, cầu Long Biên có thể là cây cầu vĩ đại vào bậc nhất ở Đông Dương, và chắc cũng là chiếc cầu đẹp, bởi nó “như một dải lụa uốn lượn vắt ngang sông Hồng”, về ý nghĩa tích cực thì “cầu Long Biên được coi là một thành tựu quan trọng trong thời văn minh cầu sắt”, và ý nghĩa tiêu cực thì cầu là “là một trong những kết quả của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp ở Việt Nam”. Chính vì ý nghĩa chính trị tiêu cực ấy mà tác giả nhắc lại với thái độ phê phán “các ông chủ người Pháp đã khiến cho hàng nghìn người Việt Nam bị chết trong quá trình làm cầu”. Những thông tin ấy làm cho người đọc vừa tự hào vừa căm tức. Tự hào vì có công sức của cha ông, căm tức vì sự đối xử tàn nhẫn, bóc lột xương máu bởi thực dân dù lịch sử đã khép lại.

Cầu lúc khánh thành mang tên quan Toàn quyền Pháp ở Đông Dương là ông Đu-me (Paul Doumer), tới năm 1945 mới đổi thành cầu Long Biên.

“Từ đoạn văn kế tiếp cho tới hết bài Thúy Lan đã kết hợp văn miêu tả với văn tự sự, ngôi kể là “tôi”. Tác giả đã kế lại những gì mắt thấy tai nghe theo chiều thời gian kế từ khi Pháp trở lại xâm chiếm Việt Nam.
Tác giả miêu tả cấu trúc cầu Long Biên, gồm tuyến đường sắt chính giữa, hai bên là đường dành cho ô tô, và người đi bộ. Sau đó là những câu văn tự sự kể lại cảm nhận của tác giả về cây cầu. Thúy Lan đã trích dẫn bài thơ trong sách giáo khoa:

Hà Nội có cầu Long Biên
Vừa dài vừa rộng bắc trên sông Hồng
Tàu xe đi lại thong dong

Người người tấp nập gánh gồng ngược xuôi...

Bốn câu thơ miêu tả cầu Long Biên như là chứng nhân lịch sử trong khoảng thời gian xã hội Việt Nam, người dân Hà Nội sống trong hoàn cảnh tương đối thanh bình. Tác giả đã từng đứng trên cầu “say mê ngắm nhìn màu xanh bãi mía, nương dâu, bãi ngô, vườn chuối phía Gia Lâm không bao giờ chán mắt”, hay “khi chiều xuống, nhìn về phía Hà Nội thấy những ánh đèn mọc lên như sao sa, gợi lên bao quyến rũ và khát khao”. Đấy là những dòng văn tự sự mang yếu tố miêu tả, vẽ lại những bức tranh phong cảnh thiên nhiên, sinh hoạt của con người Hà Nội nhiều màu sắc xanh tươi và quyến rũ trong không khí thanh bình.
Cũng tại nơi đây “nhìn xuống dưới chân cầu, tói nhớ những ngày dầu năm 1947, cái ngày người dân thủ đô cùng Trung đoàn yêu dấu của mình ra đi bí mật...”. Cùng là những dòng văn tự sự khơi lại kí ức một thời chống thực dân. Tác giả đã trích dẫn những câu thơ của Chính Hữu đã được Lương Ngọc Trác phổ thành ca khúc Ngày về:

Những đêm ra đi đất trời bốc lửa
Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn phất phơ mười phương cờ đỏ thắm
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa...

Cầu Long Biên đã là chứng nhân lịch sử thời chống Pháp. Trong thời kì chống đế quốc, cầu Long Biên trở thành nạn nhân trực tiếp hứng chịu nhiều trận bom dữ dội của không lực Hoa Kì. “Những nhịp cầu tả tơi như ứa máu nhưng cả cây cầu vẫn sừng sững giữa mênh mông trời nước. Chúng ta hàn. Bom Mĩ lại cắt dứt. Lần cuối cùng vào năm 1972, chiếc cầu bị không quân Mĩ ném bom la-de”.

Những câu văn tự sự được viết với phép so sánh, miêu tả công việc đã làm nổi bật sức chịu đựng, chí bất khuất của cầu và quân dân Hà Nội trước âm mưu và sự tàn phá dữ dội của văn minh quân sự Mĩ. Cầu đã được đồng hóa với người. Người gắn bó keo sơn với cầu nên khi cầu bị bom la-de cắt đứt thì “Nước mắt ứa ra, tôi tưởng như minh dứt từng khúc ruột”. Sự so sánh làm nặng thêm tình nghĩa giữa người và cầu.
Với sự tàn phá của thực dân và đế quốc thì như thế, tác giả vẫn không quên nhắc đến sự tàn phá của thiên nhiên. Mùa mưa đến, nước sông Hồng cuồn cuộn đỏ ngầu như sức mạnh trong cơn cuồng giận “nhấn chìm bao màu xanh thân thương, bao làng mạc trù phú đôi bờ” thì tác giả vẫn “cảm thấy chiếc cầu như chiếc võng đung đưa, nhưng vẫn dẻo dai, vững chắc”. Người có cảm giác nước sông Hồng như chàng Thủy Tinh và cầu Long Biên như chàng Sơn Tinh trong truyện cổ.

Đoạn cuối của bài văn là lời xác định, phỏng đoán, rồi liên tưởng đến một điều có ý nghĩa sâu sắc về nhân văn. Lời xác định ấy là “Ngang sông Hồng đã có cầu Thăng Long, cầu Chương Dương sừng sững”. Lời phỏng đoán ấy là “sẽ còn có những chiếc cầu khác hiện đại hơn nữa vượt sông Hồng”. Và liên tưởng đầy tính nhân văn ấy là “tôi vẫn thường đưa những đoàn khách du lịch nước ngoài đên thăm cầu Long Biên”. Tại sao Thúy Lan lại thích làm công việc ấy? Có thể là do yêu cầu của du khách muốn tận mắt nhìn chứng tích của chiến tranh. Riêng tác giả, như lời tâm sự thật chí tình rằng: “Còn tôi, cố gắng truyền tình yêu cây cầu của mình vào trái tim họ, dăng bắc một nhịp cầu vô hình nơi du khách để du khách ngày càng xích lại gần với đất nước Việt Nam”. Còn ý nghĩa nhân văn nào sâu sắc hơn từ một chiếc cầu như cầu Long Biên?
Với lối viết bút kí có nhiều yếu tố hồi kí, Thúy Lan đã giới thiệu với bạn đọc nguồn gốc của cầu Long Biên. Và những niềm vui, những sự kiện lịch sử hào hùng, bi tráng của người Hà Nội mà cây cầu đã chứng kiến, đã là nạn nhân.

3.2. Bài văn mẫu số 2

Cầu Long Biên- nhân chứng lịch sử của Thúy Lan ghi lại những sự kiện lớn có liên quan đến cây cầu này đồng thời thể hiện tình cảm yêu mến tự hào về cây cầu đã gắn liền với những chiến công vinh quang của Hà Nội nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.

Cuộc chiến tranh chống xâm lược Mĩ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đã kết thúc thắng lợi. Mưa bom bão đạn đã qua, dân tộc Việt Nam bắt tay vào công cuộc xây dựng lại non sông. Cây cầu Long Biên vẫn sừng sững soi bóng trên dòng sông Hồng. Giờ đây, cầu Long Biên là nhịp cầu hữu nghị, đón bè bạn năm châu đến với Việt Nam.

Mở đầu bài văn, tác giả giới thiệu lai lịch của cầu Long Biên: cầu Long Biên bắc qua sông Hồng, Hà Nội, được khởi công xây dựng vào năm 1898 và hoàn thành sau bốn năm, do kiến trúc sư nổi tiếng người Pháp Ép-phen thiết kế. Một thế kỉ qua, cầu Long Biên đã chứng kiến bao sự kiện lịch sử hào hùng, bi tráng…

Trong đoạn văn này, sự vật được trình bày một cách khách quan. Tác giả chủ yếu dùng phương thức thuyết minh để nói lên những hiểu biết có căn cứ khoa học chứ không đơn thuần là những cảm nghĩ về cầu Long Biên.

Giờ đây, bắc ngang sông Hồng đã. có thêm cầu Thăng Long, cầu Chương Dương hiện đại hơn. cầu Long Biên trong thời bình đã rút về vị trí khiêm nhường, nhưng nó đã trở thành chứng nhân lịch sử. cầu Long Biên như một nhân chứng sống động, đau thương và anh dũng của Thủ đô Hà Nội.

Đối với người Hà Nội nói riêng và đối với nhân dân Việt Nam nói chung, cầu Long Biên là chùng nhân lịch sử, chứng kiến những giai đoạn đau thương và oanh liệt của dân tộc chống ngoại xâm. Ở đoạn tiếp theo, những đặc điểm của cây cầu Long Biên đã được tác giả trình bày trong mối tương quan với những vấn đề lịch sử – xã hội khác, như cầu khi mới khánh thành mang tên Toàn quyền Pháp ở Đông Dương lúc bấy giờ là Đu-me… Cầu là kết quả của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, cầu được coi là một thành tựu quan trọng trong thời văn minh cầu sắt… Cầu được hoàn thành là do công sức lao động và có khi cả mạng sống của hàng nghìn người Việt Nam trong quá trình xây dựng.

Chiếc cầu từng chứng kiến cảnh ăn ở khổ cực của dân phu Việt Nam, cảnh đối xử tàn nhẫn của các ông chủ người Pháp…Trong các chi tiết tường thuật và miêu tả đều biểu hiện tình cảm và sự đánh giá đúng đắn của tác giả về cầu Long Biên.

Mục đích chính của thực dân Pháp là xây dựng cây cầu để tiến hành triệt để việc khai thác thuộc địa. Khi dựng xong với cách nghĩ và cách cảm của người dân Việt Nam, chiếc cầu được coi là của Việt Nam vì nó được làm trên đất Việt Nam, bằng mồ hôi và máu của hàng nghìn người dân Việt Nam. Cầu Long Biên đã trở thành niềm tự hào của người dân Thủ đô:

Hà Nội có cầu Long Biên Vừa dài vừa rộng bắc trên sông Hồng.

Tàu xe đi lại thong dong Người người tấp nập gánh gồng ngược xuôi…

Tình cảm của tác giả đối với cầu Long Biên bộc lộ trong bài văn thật rõ ràng, tha thiết:

Những năm tháng hoà bình trước đây, cầu Long Biên từng được đưa vào sách giáo khoa. Tôi vẫn nhớ như ln hình ảnh chiếc cầu được vẽ trang trọng giữa trang sách vói bài thơ đã được bao thế hệ học thuộc lòng. Dù chưa đến lớp nhưng nghe các anh các chị đọc, những câu thơ ấy đã nằm sâu trong trí óc tôi…

Cây cầu Long Biên đã cùng vui buồn, sống chết với nhân dân Thủ đô và nhân dân cả nước trong những tháng năm mưa bom bão đạn. Giờ đây, được thanh thản ngắm trời thu xanh biếc, tác giả vẫn bồi hồi, đau xót khi nhớ lại cảnh cầu Long Biên bao lần bị quân thù bắn phá, tưởng chừng như không thể nào đứng vững.

Và cứ mỗi lần ngẩng lên nhìn bầu trời Hà Nội trong xanh, lòng tôi lại nhớ những năm tháng chống đế quốc Mĩ oanh liệt và oai hùng. Chiếc cầu thân thương ngày ấy trở thành mục tiêu ném bom dữ dội nhất của không lực Hoa Kì. Trong đợt đánh phá miền Bắc lần thứ nhất, cầu bị đánh mười lần, hỏng bảy nhịp và bốn trụ lớn. Đợt thứ hai, cầu bị bắn phá bốn lần với 1000m bị hỏng và hai trụ lớn bị cắt đứt. Những ngày ấy từ phía cầu Đất nhìn lên, tôi thấy chiếc cầu rách nát giữa trời. Những nhịp cầu tả tơi như ứa máu nhưng cả cây cầu vẫn sừng sũng giữa mênh mông trời nước. Chúng ta hàn. Bom Mĩ lại cắt đứt. Lần cuối cùng vào năm 1972, chiếc cầu bị không quân Mĩ ném bom la-de. Tôi chạy lên cầu ngay khi tiếng bom vừa dứt. Những cảnh vệ đầu cầu đã ngăn không cho tôi lên. Nước mắt ứa ra, tôi tưởng như mình đứt từng khúc ruột.

Vào thời gian ấy, thiên tai đồng hành với địch hoạ:

Rồi những ngày nước lên cao, gần mấp mé thân cầu. Đứng trên cầu, nhìn dòng sông Hồng đỏ rực nước cuồn cuộn chảy với sức mạnh không gì ngăn nổi, nhấn chìm bao màu xanh thân thương, bao làng mạc trù phú đôi bờ, tôi cảm nhận thấy chiếc cầu như chiếc võng đung đưa, nhưng vẫn dẻo dai, vững chắc.

Dường như có một phép lạ nào đó, cây cầu Long Biên vẫn tồn tại lẫm liệt đường hoàng. Ngày ngày, vẫn đưa đón dòng người ngược xuôi muôn ngả.

Cầu Long Biên được nhân hoá, mang hồn người và được coi là chứng nhản lịch sử. Phép nhân hoá đó đã đem lại sự sống cho sự vật vô tri vô giác, cầu Long Biên đã trở thành người cùng thời với bao thế hệ, ngày ngày chứng kiến và xúc động trước những thăng trầm, đổi thay to lớn của Thủ đô, của đất nước và dân tộc.

Giọng điệu trữ tình được nâng cao, mở rộng ở phần cuối của bài văn: Bây giờ cầu Long Biên đã rút về vị trí khiêm nhường. Ngang sông Hồng đã có cầu Thăng Long, cầu Chương Dương sừng sững. Rồi sẽ còn có những chiếc cầu khác hiện đại hơn nữa vượt sông Hồng. Nhưng tôi vẫn thường đưa nhũng đoàn khách du lịch nước ngoài đến thăm cầu Long Biên. Họ trầm ngâm nện từng bước chân xuống mặt cầu. Họ đứng ở nhiều gốc độ, ghi lại hình ảnh chiếc cầu lịch sử. Còn tôi, cố gắng truyền tình yêu cây cầu của minh vào trái tim họ, đặng bắc một nhịp cầu vô hình nơi du khách để du khách ngày càng xích lại gần với đất nước Việt Nam.

Lịch sử và hình ảnh quen thuộc, thân thương của cầu Long Biên không chỉ làm cho bao thế hệ người Việt Nam xúc động mà còn làm cho khách du lịch nước ngoài trầm ngâm suy nghĩ. Giữa ta và họ ít nhiều vẫn còn khoảng cách nhưng chính cầu Long Biên như một nhân chứng sống động, đau thương và anh dũng đã góp phần rút ngắn khoảng cách ấy. Từ một chiếc cầu bằng sắt nối đôi bờ sông Hồng, tác giả đã gợi cho ta nghĩ đến một “nhịp cầu vô hình” nối những trái tim nhân loại.

----------Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp-----------

 

AANETWORK
 

 

YOMEDIA
AANETWORK
OFF