Có rất nhiều câu nói, lời phê bình văn học nói về tác phẩm kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du, tuy nhiên không phải quan điểm nào cũng chính xác hoàn toàn. Nhằm giúp các em học sinh lớp 11 có thêm tư liệu viết bài văn số 5, HOC247 đã biên soạn và tổng hợp tài liệu văn mẫu Người xưa có câu: Người xưa có câu: Đàn bà chớ kể Thuý Vân, Thuý Kiều. Hãy nêu ý kiến của anh (chị) về câu nói trên dưới đây. Hi vọng tài liệu sẽ các em có những cái nhìn mới về Truyện Kiều. Chúc các em có những bài văn thật hay!
1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý
2. Dàn bài chi tiết
2.1. Mở bài
- Giới thiệu câu nói của người xưa: Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều.
- Nêu suy nghĩ của bản thân: đây là quan niệm sai lầm của các nhà Nho bảo thủ trong chế độ phong kiến ngày xưa đối với nhân vật Thúy Vân, Thúy Kiều (chủ yếu là Thúy Kiều) và Truyện Kiều của Nguyễn Du.
2.2. Thân bài
* Giải thích câu nói
- Câu nói đầy đủ là:
Đàn ông chớ kể Phan Trần
Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều.
- Ý người xưa muốn gửi gắm qua câu trên là khuyên đàn bà, con gái không nên đọc (chớ kể) Truyện Kiều và không được bắt chước Thúy Kiều vì cho rằng nàng là một người con gái hư hỏng, dám vượt qua lễ giáo phong kiến.
* Ý kiến của bản thân trước câu nói
- Đây là một quan niệm sai lầm, bảo thủ, chỉ nhìn nhận và đánh giá Thúy Kiều một cách phiến diện. Lấy đạo đức Nho giáo cứng nhắc làm tiêu chí để đánh giá phẩm chất của một người con gái.
- Thúy Kiều là người con gái đáng thương và đáng trân trọng.
+Trong tình yêu: Nàng đã mạnh dạn vượt qua rào cản vô hình nhưng khắc nghiệt của lễ giáo phong kiến để chủ động tìm đến với tình yêu tự do, với người mình yêu. Đối với người yêu, nàng tỏ ra đoan trang, đúng mực.
+ Trong quan hệ với cha mẹ: Nàng là một người con hiếu thảo, dám hi sinh tình yêu để giữ trọn đạo hiếu.
+ Trong nghịch cảnh: Nàng luôn tìm cách thoát khỏi cuộc sống tủi nhục chốn lầu xanh, nhưng mỗi lần vươn lên là mỗi lần nàng bị nhấn xuống sâu hơn.
+ Kết thúc quãng đời mười năm lăm chìm nổi, Thúy Kiều đoàn tụ với gia đình, với Kim Trọng. Vì tôn trọng mối tình đầu trong sáng, tôn trọng người yêu cũ nên nàng đã: Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ (Tức là đổi tình yêu thành tình bạn tri âm, tri kỉ).
+ Như vậy, Thúy Kiều là con người đáng thương và đáng trân trọng chứ không đáng ghét, đáng khinh.
+ Truyện Kiều là một kiệt tác của dân tộc với những giá trị lớn lao và sâu sắc nên chúng ta cần có một thái độ đánh giá khách quan và đúng đắn.
- Đọc Truyện Kiều chúng ta thấy được sự tàn bạo của chế độ phong kiến đối với con người, nhất là phụ nữ.
- Truyện Kiều còn là đỉnh cao nghệ thuật thơ ca trên nhiều phương diện: ngôn ngữ, xây dựng tính cách, phân tích tâm lí nhân vật, tả cảnh, tả người…
2.3. Kết bài
- Khẳng định câu nói trên quan điểm sai lầm của một số nhà Nho thủ cựu bênh vực lễ giáo phong kiến, phủ nhận Thúy Kiều và Truyện Kiều.
- Chúng ta nên đọc Truyện Kiều để hiểu giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm, về tài năng hiếm có của tác giả; đồng thời thấy được phẩm chất đáng quý của Thúy Kiều – người con gái tài sắc vẹn toàn – nạn nhân của xã hội phong kiến xấu xa, tàn bạo.
3. Bài văn mẫu
Đề bài: Người xưa có câu: "Đàn bà chớ kể Thuý Vân, Thuý Kiều". Ý kiến của anh (chị)
Gợi ý làm bài
3.1. Bài văn mẫu số 1
Kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du có một số phận chìm nổi lênh đênh chẳng khác nào nhân vật chính của truyện – nàng Kiều. Trước khi được thừa nhận với tư cách là kiệt tác truyện Nôm, là “quốc hồn quốc túy” của dân tộc, những tư tưởng tiến bộ trong tác phẩm bị che mờ, ẩn khuất. Đã có những quan niệm phủ nhận, thậm chí lên án tư tưởng của “Truyện Kiều” chẳng hạn như câu nói của người xưa: “Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều”. Vậy ta cần hiểu vấn đề này ra sao?
Thực ra, câu nói trên có dạng đầy đủ giống như một câu ca dao:
“Đàn ông chớ kể Phan Trần
Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều”.
Tác giả của hai câu trên đã nhìn các nhân vật văn học bằng hệ thống quan niệm khe khắt, khắc nghiệt của đạo Nho.
Phan Trần hay Thúy Vân và đặc biệt là Thúy Kiều, họ đều là những người có quan niệm mới mẻ, táo bạo trong tình yêu đôi lứa, trong cách ứng xử thế thái nhân tình.
“Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều” bởi trước hết những nhân vật này đã phá vỡ quan niệm phong kiến về tình yêu đôi lứa. Người xưa cho rằng: “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Con cái không có quyền chủ động trong tình yêu, hôn nhân. Việc trăm năm đời người do cha mẹ tính kế vuông tròn, dạm hỏi nơi môn đăng hộ đối. Thậm chí có những người phải chấp nhận hôn ước từ khi còn nằm trong bụng mẹ. Có kẻ đến lễ động phòng mới biết mặt vợ, mặt chồng… Những cuộc hôn nhân ấy không xuất phát từ tình yêu, họ sống với nhau cả đời chỉ bởi trách nhiệm và nghĩa vụ. Họ không hạnh phúc. Họăc không, nếu có chút tình ý, con trai mới có quyền chủ động tỏ tình, dạm hỏi. Tình người thiếu nữ dẫu có dạt dào muôn trùng sóng vỗ cũng đành ghìm nén nguyện làm bến làm bờ lặng im chờ đợi:
“Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”.
Có “trót dại” để tình ý lộ ra, người con gái sẽ bị dư luận khép vào tội “lăng loàn”, “dại trai”, “đĩ thõa”,… Thúy Kiều thì ngược lại. Sau ngày Tết thanh minh – sau chút “lưu luyến ban đầu” “tình trong như đã mặt ngoài còn e” với chàng Kim, nàng đã ấp ủ trong tim hình bóng chàng trai “vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa” này. Biết chàng ở kề ngay bên nhà, nàng đã có một hành động vô cùng táo bạo, có thể khiến cả hệ thống tư tưởng Nho gia lung lay sụp đổ.
“Xăm xăm băng lối vườn khuya, một mình”.
Chỉ xét về mặt thời gian của hành động đã thấy Thúy Kiều “cả gan” thế nào! “vườn khuya”, đêm khuya là thời điểm người ta ít ra ngoải bởi e những điều trắc trở. Là nữ giới, lại càng kiêng kỵ hơn. Các nàng ngày ngày chỉ giam mình trong khuê phòng học đàn hát, thêu thùa. Bản thân Kiều cũng vốn: “Êm đềm trống rủ màn che” đây chứ! Vậy mà đêm hôm nàng dám “một mình” vượt tường sang với Kim Trọng. Nam nam nữ nữ giữa đêm khuya khoắt tất có chuyện ám muội. Cái tư thế, tâm trạng của nàng mới hăm hở, vội vã làm sao “xăm xăm” – “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Thực hiện hành động dễ gây mối hiểm nghi như vậy nhưng nàng không chút dè dặt, e lệ. “Xăm xăm” là từ gợi tả dáng đi nhanh liền một mạch nhằm thẳng tới nơi đã định. Trong cái “xăm xăm” của Kiều, ta tưởng như nàng ngoài Kim Trọng ra chẳng còn biết ai nữa!
Mối tình Kim – Kiều là mối tình táo bạo, đẹp đẽ hiếm có trong văn học Việt Nam nói riêng và đời sống xã hội nói chung. Đến như Nguyễn Công Trứ đa tình nức tiếng, tám mươi tuổi vẫn tuyển những nàng hầu mười tám đôi mươi còn muốn gọi hồn Nguyễn Du đòi nọc ra đánh vì: sao nàng Kiều của Tố Như “bạo gan” đến thế! Vạ dĩ nhiên, xã hội phong kiến với những định kiến cổ hủ về quyền yêu, quyền sống con người sao có thể chấp nhận một người thiếu nữ khát khao tình yêu rất thành thực với mình như vậy?
Người ta e dè Thúy Kiều còn bởi họ đã gán cho nàng một cái oan danh: tà dâm. Có điều đó bởi trong mời lăm năm lưu lạc, Kiều đã phải chịu số: “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”. Tức là kiếp gái lầu xanh “Thân sao bướm chán ong chường bấy thân”. Trong suy nghĩ thiển cận của lớp nhà nho hủ lậu, họ cho rằng Thúy Kiều hiện thân cổ vũ cho lối sống buông thả, lăng loàn, đĩ thõa – lối sống của gái lầu xanh “lấy đêm làm ngày, lấy ngày làm đêm”.
Băng qua thăng trầm của thời gian, ngụp lặn vẫy vùng trong đầm lầy của định kiến, cho đến ngày nay Truyện Kiều vẫn rực rỡ như một kiệt tác lớn nhất của văn học Việt Nam. Điều đó khẳng định: “Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều” chỉ là cái nhìn một chiều, phiến diện, hẹp hòi, ích kỷ.
Thật vậy, tình yêu là thứ tình cảm cao quý thiêng liêng, nó thuộc về tất cả mọi người, không là đặc quyền của riêng tầng lớp, giai cấp, giới tính nào. Tình yêu cũng đến (và đi) tự nhiên như gió và nắng vậy, chẳng ai có thể ngăn cản hay cưỡng ép. Con người ai ai cũng biết yêu (không yêu sao có thể gọi là người?) chỉ có điều có ai dám nói ra điều đó hay không. Và Thúy Kiều đã dám thể hiện thành thực với lòng mình, nàng làm điều đó một cách chân thành cảm động! Ở đặc điểm này của nhân vật, ngòi bút Nguyễn Du đã thể hiện giá trị nhân bản sâu sắc của mình.
Nhưng ta cần hiểu thêm rằng tình yêu của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng trong sáng, son sắt thủy chung đến vô ngần. Hiểu được điều này để ta trân trọng tình yêu của nàng hơn. Kiều không phải như ai “tường đông ong bướm”. Nàng thành thực, sôi nổi trong bày tỏ lòng yêu song cũng biết giới hạn, giữ gìn tiết hạnh. Khi Kim Trọng:
“Sóng tình dường đã xiêu xiêu
Xem trong âu yếm có chiều lả lơi”.
Thúy Kiều đã nhẹ nhàng nhắc nhở: “Thưa rằng đừng lấy làm chơi”. Tình yêu em dành cho chàng là tình cảm thật lòng, sâu sắc không phải là thứ tình thoáng qua chơi bời buông thả. Bởi vậy:
“Đã cho vào bậc bố kinh
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu”.
Còn như:
“Ra tuồng trên bộc dưới dâu
Thì con người ấy ai cầu mà chi”.
Sau câu nói này của Kiều, liệu còn ai dám coi thường nàng. Và Kim Trọng lại càng thêm “say vì sắc”, “trọng vì tình” Kiều hơn. Mối tình đầu say mê trinh trắng ấy, nàng đã mang theo suốt quãng đời mười lăm năm chìm nổi. Phiêu dạt chân trời góc bể có khi nào Kiều dám lãng quên? Bán mình chuộc cha, nàng ngất lịm đi khi nghĩ về chàng Kim:
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”.
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân” bẽ bàng, người đầu tiên Kiều nhớ đến cũng là Kim Trọng: “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Tình yêu nơi Thúy Kiều là thứ tình cảm chân chính mãnh liệt, là niềm mơ – ước ngưỡng vọng của muôn vàn thế hệ.
Chẳng những vậy, nỗi bất hạnh “Thanh lâu hai lợt, thanh y hai lần” của Kiều chỉ càng làm thắm thêm chữ hiếu, chữ trinh. Nhắc đến đây, tôi nhớ đến câu nói của một bà mẹ: “Nước Nam khổ nhất con Kiều”. Sự thực, người Việt Nam đã coi Kiều là một hình ảnh sống, sinh động chân thực. Và hơn hết đã dành cho con người ấy một tình thương bao la.
Không thương sao được, và có lẽ còn hơn cả lòng thương là sự cảm phục. Sở dĩ Kiều phải nhục nhã ê chề đến thế vì nàng nghĩ đến cha mẹ, hai em. Nàng bán mình chuộc cha để giữ yên ấm cho gia đình. Vậy căn nguyên của nồi đau trinh tiết chính là chữ hiếu cam động nơi Kiều. Mặt khác, dẫu dấn thân vào chốn bùn lầy, nàng cũng khổ đau lắm chứ. Nàng tự thấy mình nhơ bẩn, tự hổ thẹn với chính mình:
“Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân”
Rồi không chịu nổi nhục nhã, điều tất yếu đã đến: Kiều tự giải thoát mình. Không trôn khỏi được lầu xanh, nàng liều mình tự sát… Có thể nói, Thúy Kiều là một hình tượng vắn học gây nhiều tranh cãi, là chủ đề bàn luận về sự Xấu – Đẹp ở đời. Gạt đi những khói sương còn che mờ đâu đó, Thúy Kiều tiêu biểu cho vẻ đẹp cũng như nỗi bất hạnh của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến Việt Nam. Qua Thúy Kiều, Nguyễn Du đã gửi gắm nhiều tư tưởng tiến bộ mang ý nghĩa nhân văn sâu đậm.
“Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều” – một câu ca mang ý nghĩa phủ nhận nhưng nó càng khiến người đọc tò mò, tìm hiểu. Qua đó ta hiểu và khẳng định giá trị của nhân vật, của tác phẩm và trân trạng tài năng của Nguyễn Du hơn nữa.
3.2. Bài văn mẫu số 2
Truyện Kiều từ lâu đã được đánh giá là một kiệt tác, đỉnh cao của nghệ thuật thơ ca tiếng Việt và thi hào Nguyễn Du được công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới. Thế nhưng dưới thời phong kiến trước đây, đã có lúc Truyện Kiều bị kết tội là "dâm thư" và trong dân gian lưu truyền câu nói: Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều. Dựa trên cơ sở giá trị bất hủ của Truyện Kiều, chúng ta có thể khẳng định rằng đây là quan điểm sai lầm của một số nhà Nho bảo thủ.
Dạng đầy đủ của câu nói đó như sau:
Đàn ông chớ kể Phan Trần,
Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều.
Ý nghĩa của câu nói này là răn đe nam nữ chớ noi gương Phan Trần trong truyện thơ Phan Trần và Thúy Kiều trong Truyện Kiều, làm những điều trái với lễ giáo phong kiến. Các nhà Nho bảo thủ cho rằng Thúy Kiều là một cô gái hư vì đã dám coi thường chuẩn mực đạo đức phong kiến. Đạo đức ấy quy định người phụ nữ phải đoan chính, phải giữ chữ trinh làm đầu. Trong khi luân lí quy định nam nữ thụ thụ bất thân, vậy mà Thúy Kiều lại dám: Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình sang gặp Kim Trọng để thổ lộ lòng mình. Đã thế, trong quãng đời mười lăm năm lưu lạc, Thúy Kiều phải trải qua: Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần, hết gá nghĩa với Thúc Sinh lại kết duyên vợ chồng với Từ Hải. Chính những điều ấy khiến các nhà Nho thủ cựu phê phán Thúy Kiều mà không cần tìm hiểu, phân tích rõ nguyên nhân.
Chúng ta thấy họ đã sai lầm và phiến diện khi đánh giá Thúy Kiều và Truyện Kiều vì Thúy Kiều là người con gái đáng thương và đáng trân trọng. Nàng không chỉ tài sắc vẹn toàn mà còn có phẩm hạnh cao quý hiếm thấy. Trong tình yêu với Kim Trọng, Thúy Kiều là người tình tuyệt vời. Nàng đã dám vượt qua những trói buộc hà khắc của lễ giáo phong kiến để chủ động đi tìm hạnh phúc. Điều đó thể hiện khát vọng sống, khát vọng yêu mãnh liệt. Hành động của Thúy Kiều thật đáng yêu, đáng phục. Thử hỏi các cô gái ngày nay mấy người dám suy nghĩ và hành động mạnh dạn như nàng? Không ngồi chờ số phận, không chấp nhận quy định: Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy của lễ giáo phong kiến cổ hủ, đó là sự dũng cảm, tiến bộ của Thúy Kiều.
Chúng ta hãy trở lại với mối tình khá đặc biệt của lứa đôi Kim Trọng, Thúy Kiều, một trong những nguyên nhân dẫn đến quan niệm cực đoan trên. Nói theo ngôn ngữ hiện đại thì hai người đã bị ‘‘tiếng sét ái tình" đánh trúng ngay từ phút đầu tiên gặp gỡ trong một buổi chiều của tiết Thanh minh, để rồi Người quốc sắc kẻ thiên tài, Tình trong như đã mặt ngoài còn e. Sau lúc chia tay, hình bóng Kim Trọng đã in đậm trong trái tim đa cảm của Thúy Kiều khiến nàng thao thức, băn khoăn suốt canh thâu: Người đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên gì hay không ? Tình yêu chân thành, mãnh liệt đã thôi thúc nàng Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình sang tâm sự với chàng Kim. Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường, cử chỉ hăm hở và mạnh bạo của Thúy Kiều đã gây ngạc nhiên đến sững sờ cùng với phản ứng dữ dội của những người vốn coi trọng luân thường đạo lí Nho giáo. Họ không thể chấp nhận một tiểu thư khuê các như Thúy Kiều mà lại có tư tưởng tự do, tình yêu tự do vượt ra ngoài khuôn khổ của lễ giáo và sợ rằng nàng sẽ là gương xấu cho nữ giới. Đó cũng là điều dễ hiểu dưới thời phong kiến.
Thúy Kiều đã tự tìm đến với người yêu, với tình yêu. Tuy chủ động tìm đến với Kim Trọng nhưng Thúy Kiều luôn giữ sự đoan trang, đúng mực. Trong đêm thề nguyền đính ước, khi Kim Trọng: Sóng tình dường đã xiêu xiêu, Xem trong âu yếm có chiều lả lơi thì Thúy Kiều đã tế nhị, nhẹ nhàng khuyên nhủ:
Đã cho vào bậc bố kinh,
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.
Phải tuồng trên bộc trong dâu,
Thì con người ấy ai cầu làm chi!
Thúy Kiều không làm gì sai trái với đạo đức mà nàng chỉ không tuân theo những ràng buộc phi lí, cổ hủ của chế độ phong kiến mà thôi.
Nếu nhìn nhận và đánh giá tình yêu Kim Trọng - Thúy Kiều theo quan niệm của thời nay thì chúng ta thấy rằng đó là một tình yêu hồn nhiên, trong sáng. Nó không bị chi phối, không vướng bận bởi bất cứ một toan tính vật chất nào mà thuần là tiếng nói của hai trái tim, hai tâm hồn hòa hợp. Cho nên nó nhanh chóng trở thành lời thề nguyền vàng đá trăm năm. Tình yêu ấy dù dang dở nhưng nó vẫn ám ảnh mọi suy nghĩ, cảm xúc của Thúy Kiều trong suốt mười lăm năm lưu lạc: Khi Vô Tích, khi Lâm Tri, Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương với thân phận tủi nhục: Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần. Mỗi lần chìm đắm trong đau khổ, Thúy Kiều đều nghĩ tới Kim Trọng với một tình cảm xót xa, nuối tiếc: Tiếc thay chút nghĩa cũ càng, Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.
Như vậy là tình yêu và phẩm giá của Thúy Kiều rất xứng đáng với hai câu thơ ca ngợi của Nguyễn Du: Như nàng lấy hiếu làm trinh, Bụi nào cho đục được mình ấy vay? Hay như nhận xét của Chu Mạnh Trinh, một nhà Nho tiến bộ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX vốn rất mê hình tượng Thúy Kiều thì: Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên.
Đối với cha mẹ, Thúy Kiều là người con hiếu thảo hiếm có. Sau lời vu oan của một thằng bán tơ nào đó, gia đình nàng tan tác. Thúy Kiều đành phải ngậm ngùi gác mối tình đầu trong sáng, thiết tha với Kim Trọng rồi quyết định bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy ba trăm lạng vàng chuộc cha và em ra khỏi chốn ngục tù: Để lời thệ hải minh sơn, Làm con trước phải đền ơn sinh thành. Hành động bán mình chuộc cha của Thúy Kiều khiến người đọc cảm phục và thương xót.
Sau khi bước chân lên cỗ xe định mệnh: Đùng đùng gió giục mây vần, Một xe trong cõi hồng trần như bay, Thúy Kiều đã dấn thân vào kiếp đoạn trường. Suốt mười lăm năm lưu lạc, nàng luôn bị những thế lực đen tối vùi dập xuống bùn nhơ. Mấy lần nàng cố gắng vùng vẫy để thoát khỏi đêm tối của số phận nhưng lại càng bị nhấn chìm sâu hơn nữa. Làm sao chúng ta có thể trách một người con gái liễu yếu đào tơ như Thúy Kiều?! Có trách là trách cái xã hội vạn ác đã nhẫn tâm chà đạp lên số phận của người phụ nữ đáng thương ấy.
Để thoát khỏi kiếp kĩ nữ tủi nhục chốn lầu xanh nhơ nhớp, Thúy Kiều đành chấp nhận làm lẽ Thúc Sinh. Cuộc hôn nhân tạm bợ này kéo dài chưa được bao lâu thì nàng bị vợ cả Thúc Sinh là Hoạn Thư bắt cóc về nhà làm con ở, đày đọa cất đầu chẳng lên, đang đêm phải bỏ trốn khỏi Quan Âm Các. Thoát chốn hang hùm, Thúy Kiều lại rơi vào ổ rắn. Lần thứ hai, Thúy Kiều bị Bạc Bà, Bạc Hạnh lừa bán vào lầu xanh. Đau đớn và tuyệt vọng, nàng đã thốt lên những lời bất bình, uất hận:
Chém cha cái số hoa đào,
Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi!
Nghĩ đời mà ngán cho đời,
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen!
Tiếc thay nước đã đánh phèn,
Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần!
Từ Hải yêu vì sắc trọng vì tài nên đã bỏ tiền chuộc Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh và cưới nàng làm vợ. Chàng còn giúp nàng thỏa ước nguyện đền ơn, báo oán, gột rửa bao tủi hờn chất chứa trong lòng bấy lâu nay. Sống sung sướng, đầy đủ bên người anh hùng hiểu mình, thương mình hết lòng nhưng Thúy Kiều vẫn không quên tình cũ, người xưa:
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.
Xã hội trọng nam khinh nữ quan niệm rằng: Trai năm thê bảy thiếp, Gái chính chuyên chỉ có một chồng, cho nên các nhà Nho căn cứ vào đó để kết tội Thúy Kiều là: đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm mà không xem xét kĩ để tìm ra nguyên nhân nào đã đẩy nàng vào tình cảnh éo le, trớ trêu ấy.
Có lẽ chỉ có Nguyễn Du là người thấu hiểu và đồng cảm nhiều nhất với nỗi đau khổ của Thúy Kiều, để từ đó đưa ra lời nhận xét khái quát thấm đẫm cảm xúc chua xót, đắng cay:
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung!
Nguyễn Du đã hoàn lương chiêu tuyết cho Thúy Kiều bằng những câu thơ thể hiện thái độ yêu mến và trân trọng:
Như nàng lấy hiếu làm trinh,
Bụi nào cho đục được mình ấy vay…
Hoa tàn mà lại thêm tươi,
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa…
Thúy Kiều không chỉ đáng thương mà còn đáng quý. Đọc Truyện Kiều, chúng ta thông cảm với nỗi đau khổ và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của người con gái tài sắc ấy.
Câu: Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều không chỉ nhận xét sai lầm về nhân vật Thúy Kiều mà còn là nhận định không đúng về Truyện Kiều của Nguyễn Du, khi cho rằng đây là "dâm thư", không nên đọc. Truyện Kiều là một kiệt tác của nền văn học dân tộc, đỉnh cao của thơ ca tiếng Việt, bởi vậy khi đánh giá Truyện Kiều, chúng ta cần phải có thái độ khách quan, đúng đắn.
Đọc Truyện Kiều, chúng ta thấy được sự tàn ác của chế độ phong kiến đối với người phụ nữ. Một người con gái tài sắc, hiếu nghĩa đủ đường như Thúy Kiều mà lại bị coi như một món hàng vô tri vô giác: Thoắt mua về, thoắt bán đi, Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi. Cuộc đời Thúy Kiều trầm luân, khổ nhục cũng vì những thế lực đen tối trong xã hội vạn ác. Ma lực của đồng tiền khiến những kẻ bất lương nhẫn tâm đẩy Thúy Kiều từ tình cảnh đau thương này tới tình cảnh đau thương khác. Hơn ở bất cứ đâu, bức tranh về một xã hội nhiễu nhương, đảo điên, thối nát được phản ánh rất rõ trong Truyện Kiều. Nguyễn Du đã ngậm ngùi thốt lên:
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng!
Truyện Kiều còn đạt tới đỉnh cao của giá trị nhân đạo bởi nó là tiếng kêu đứt ruột về số phận của một người con gái tài sắc vẹn toàn, lẽ ra phải được sống trong tình yêu và hạnh phúc thì lại phải chịu toàn là khổ nhục, đớn đau.
Về mặt nghệ thuật, Truyện Kiều đạt tới đỉnh cao của văn chương, đặc biệt là nghệ thuật thơ ca tiếng Việt. Nguyễn Du thành công xuất sắc trên nhiều phương diện như tả cảnh, tả người, thể hiện tâm lí nhân vật… Với Truyện Kiều, Nguyễn Du xứng đáng là đại thi hào của dân tộc Việt Nam.
----------Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp-----------