YOMEDIA
NONE

Soạn bài Buổi học cuối cùng - An-phông-xơ Đô-đê - Ngữ văn 7 Tập 1 Cánh Diều

Tác phẩm Buổi học cuối cùng đã tái hiện không khí lớp học vùng An-dát trong buổi học Pháp văn - tiếng mẹ đẻ của họ lần cuối cùng. Qua đó, thể hiện tình yêu, lòng tôn kính với tiếng nói của dân tộc của người dân Pháp lúc bấy giờ. Bài soạn Buổi học cuối cùng - An-phông-xơ Đô-đê thuộc sách Cánh Diều dưới đây sẽ giúp các em có thêm nhiều kiến thức về tác phẩm đồng thời bồi dưỡng lòng yêu nước, tự tôn dân tộc. Chúc các em học tập vui vẻ!

 

1. Tóm tắt nội dung bài học

1.1. Nội dung

Qua câu chuyện buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp ở vùng An-dát bị quân Phổ chiếm đóng, Phrăng hiện lên là một chú bé hiếu động, thông minh, nhạy cảm, có tình yêu chân thành với người thầy, yêu nước sâu sắc.

1.2. Nghệ thuật

- Lựa chọn nhân vật kể chuyện hợp lí: Người kể (ở ngôi thứ nhất) là một cậu bé.

- Cách kể chân thực vì cậu là người trong cuộc - chứng kiến một cách đầy đủ buổi học cuối cùng.

- Nghệ thuật khắc hoạ chân dung nhân vật (cả ngoại hình lẫn nội tâm) đều chính xác, tinh tế.

- Miêu tả nhân vật qua ý nghĩ, tâm trạng.

- Giọng kể tự nhiên, linh hoạt, ngôn ngữ vừa chính xác vừa mang tính biểu cảm cao.

2. Soạn bài Buổi học cuối cùng - An-phông-xơ Đô-đê Ngữ văn 7 tập 1 Cánh Diều

2.1. Chuẩn bị đọc

Câu hỏi: 

- Đọc trước truyện “Buổi học cuối cùng”, tìm hiểu thêm thông tin về nhà văn An-phông-xơ Đô-đê. 

- Đọc thông tin để hiểu bối cảnh của truyện.

Trả lời:

- Nhà văn An-phông-xơ Đô-đê (13/5/ 1840 – 16/12/1897) là một nhà văn Pháp và là tác giả của nhiều tập truyện ngắn nổi tiếng. Ông sinh ra ở miền Nam nước Pháp. Khi hôn nhân của bố mẹ đổ vỡ, ông theo chân cha đến Paris và được nhận vào làm ký giả cho tờ Figaro vào năm 12 tuổi.

Ông bắt đầu viết văn từ năm 14 tuổi, đến năm 18 tuổi Alphonse ra thi tập "Những Người Ðàn Bà Ðang Yêu" và được đón nhận ngay. Ðộc giả Pháp đặc biệt yêu mến ông qua các tiểu thuyết "Thằng Nhóc Con". Sau đó là tập thi tuyển "Những Lá Thư viết từ cối xay gió", bao gồm các bài thơ đề tặng cho Marie Rieu xuất bản năm 1866. Ông đạt đến danh vọng trong làng văn chương Pháp qua giải thưởng Văn chương Pháp với quyển "Fromont Cháu Trẻ và Cụ Riler" (1874). Ðối với các phê bình gia thì trường thiên tiểu thuyết "Tartarin vùng Tarascon" (1872) gồm ba quyển là tác phẩm quan trọng và đặc sắc nhất của Alphonse Daudet.

Những năm sau ông viết nhiều tiểu thuyết cũng thành công không kém, qua các đề tài xã hội của một nước Pháp dân chủ thay thế cho chế độ quân chủ. Ðó là các tác phẩm "Những Vị Vua Lưu Vong", và "Le Nabab", mô tả những nhà triệu phú mới của thế hệ.

- Bối cảnh của truyện là thời kì sau chiến tranh, hai vùng An-dát và Lo-ren của Pháp bị nhập vào nước Phổ. Các trường học ở hai vùng này bị bắt bỏ tiếng Pháp, chuyển sang học tiếng Đức. Bối cảnh riêng của câu chuyện là quang cảnh và diễn biến của buổi học tiếng Pháp cuối cùng.

2.2. Trải nghiệm cùng văn bản

Câu 1: Chú ý người kể ngôi thứ nhất và tác dụng của ngôi kể này. 

Trả lời:

- Ngôi kể thứ nhất: nhân vật Phrăng xưng tôi kể về buổi học cuối cùng tiếng Pháp của thầy Ha-men.

- Tác dụng của ngôi kể thứ nhất: giúp câu chuyện trở nên chân thực hơn, giàu sự tin tưởng hơn, nhân vật Phrăng  bộc lộ tâm trạng, tình cảm dễ dàng hơn và người đọc hiểu rõ về nhân vật Phrăng  hơn.

Câu 2: Từ sự khác thường của buổi học, dự đoán về sự kiện xảy ra.  

Trả lời:

- Những điều khác thường trong buổi học cuối cùng:

+ Khi tới trường, không khí trường học khác lạ đã tác động mạnh đến tâm hồn nhạy cảm của Phrăng  “tiếng ông ào như chợ vỡ vang ra tận ngoài phố…” đã thay bằng sự vắng lặng đến phát sợ, ai nấy đều đã yên trong vị trí.

+ Khi Phrăng  đi học muộn nhưng thầy Ha-men lại rất ân cần thay vì giận dữ “Phrăng , vào chỗ nhanh lên con, lớp học sắp bắt đầu mà không có con”

 - Dự đoán các sự kiện xảy ra:

+ Thầy sẽ nhắc nhở lớp về tiết học cuối cùng.

+ Thầy sẽ tiến hành bài dạy cuối cùng.

+ Thầy chia tay các học trò của mình.

+ Học trò chia tay thầy.

Câu 3: Chú ý không khí lớp học, cách ăn mặc và thái độ khác thường của thầy Ha-men. 

Trả lời:

- Không khí lớp học: có cái gì đó khác thường và trang trọng; cuối lớp dân làng ngồi lặng lẽ như chúng tôi…ai nấy đều buồn rầu 

- Cách ăn mặc của thầy Ha-men: thầy mặc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn, cái mũ tròn bằng lụa đen

- Thái độ khác thường của thầy Ha-men: thay vì giận dữ như mọi ngày thì thầy ân cần, nhẹ nhàng “ Phrăng vào chỗ nhanh lên con”, “các con ơi…mong các con hết sức chú ý”.

Câu 4: Chú ý sự đối lập trong cảm nhận của Phrăng về những cuốn sách.  

Trả lời:

Sự đối lập trong cảm nhận của Phrăng  về những cuốn sách:

+ Ban đầu còn thấy chán ngán đến thế, mang nặng đến thế.

+ Giờ đây dường như những người bạn cố tri mà tôi sẽ rất đau lòng phải giã từ.

Câu 5: Tại sao thầy Ha-men lại nói: “…con bị trừng phạt thế là đủ rồi…” 

Trả lời:

Thầy Ha-men lại nói: “…con bị trừng phạt thế là đủ rồi…” là bởi vì: 

+ Trước đây khi dạy học thì thầy Ha- men hay phạt, vụt thước kẻ để bắt các học trò học bài trong đó có Phrăng.

+ Dường như thầy đọc được suy nghĩ của Phrăng: là mong muốn đọc được trót lọt cái quy tắc về phân từ hay ho ấy, đọc to rõ ràng không phạm một lỗi nào thì dù có phải đánh đổi gì cũng cam. Có nghĩa là Phrăng đang hối hận, nuối tiếc vì không học hành tử tế để giờ đây không đọc được thứ tiếng bản địa của mình.

Câu 6: Em có suy nghĩ gì về những dòng chữ in đậm: “khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững được tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù”.

Trả lời:

Câu nói của thầy Ha-men "... khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa của chốn lao tù...". Câu nói này chính là chân lí của cả câu chuyện. Nó khẳng định và làm nổi bật giá trị thiêng liêng, sức mạnh to lớn của tiếng nói dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do, thoát khỏi vòng nô lệ. Tiếng nói của dân tộc được hình thành và vun đắp bằng sự sáng tạo của bao thế hệ qua hàng ngàn năm, là thứ tài sản vô cùng quý báucủa mỗi dân tộc. Vì vậy phải biết yêu quý, giữ gìn và học tập để nắm vững tiếng nói cùa dân tộc mình, nhất là khi đất nước rơi vào vòng nô lệ.

Câu 7: Băn khoăn của cậu bé Phrăng: “Liệu người ta có bắt cả chúng nó cũng phải hót bằng tiếng Đức không nhỉ?” gợi cho em liên tưởng gì? 

Trả lời:

Điều băn khoăn của Phrăng “Liệu người ta có bắt cả chúng nó cũng phải hót bằng tiếng Đức không nhỉ?”tưởng chừng như là ngây ngô nhưng ẩn sâu trong đó biết bao điều thú vị. Trong phút giây cuối cùng của buổi học dường như chú hiểu được sự yêu tổ quốc yêu quê mẹ như thế nào. Những con chim bồ câu thể hiện cho sự hòa bình, sự tự do chúng hót với những âm thanh/ tiếng riêng của chúng. Nhưng câu hỏi của chú bé làm chúng ta như sững lại. Chú hỏi như vậy như thể những con chim bồ câu kia cũng biết tiếng Pháp vậy. Điều đó đã thể hiện được tình yêu nước của chú. Chú yêu tiếng nói của mình. Chú thấy thương và thắc mắc ko biết những con chim bồ câu của nước Pháp kia có phải hót bằng tiếng Đức không nữa. Đó chính là sự yêu nước yêu tiếng Pháp mà bấy lâu nay mới dâng chào của chú bé.

Câu 8: Chú ý hình dáng, vẻ mặt của thầy Ha-men khi viết dòng chữ cuối cùng ở phần 5. 

Trả lời:

Khi viết dòng chữ cuối cùng NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM thầy Ha-men có dáng vẻ và nét mặt:

- Hình dáng: đứng trên bục, cầm hòn phấn và dằn mạnh hết sức… thầy đứng đó đầu dựa vào tường giơ tay ra hiệu “Kết thúc rồi…đi đi thôi!”

- Nét mặt: tái nhợt, không nói hết câu.

2.3. Suy ngẫm và phản hồi

Câu 1: Nêu cách hiểu của em về nhan đề Buổi học cuối cùng. Người kể lại câu chuyện là ai? Chỉ ra tác dụng của ngôi kể này.

Trả lời:

- Nhan đề Buổi học cuối cùng: 

+ Lớp nghĩa đen: Hôm nay là buổi cuối cùng thầy trò Ha-men được học tiếng Pháp.

+ Lớp nghĩa bóng: Truyện nói đến một nỗi đau, từ ngày mai, lũ trẻ phải học tiếng của quân xâm lược. Đây là buổi học cuối cùng chúng được tắm trong tình yêu của tiếng mẹ đẻ, được sống trong môi trường văn hóa của dân tộc mình.

- Người kể lại câu chuyện là cậu bé Phrăng- xưng tôi.

- Ngôi kể thứ nhất- cậu bé Phrăng xưng tôi có tác dụng giúp câu chuyện trở nên chân thực hơn, giàu sự tin tưởng hơn, nhân vật Phrăng bộc lộ tâm trạng, tình cảm dễ dàng hơn và người đọc hiểu rõ về nhân vật Phrăng hơn.

Câu 2: Đặc điểm tính cách nhân vật thầy Ha-men được nhà văn khắc hoạ từ những phương diện nào? Hãy nêu ra một số biểu hiện cụ thể trong văn bản.

Trả lời:

- Đặc điểm tính cách nhân vật thầy Ha-men được nhà văn khắc hoạ từ những phương diện: hình dáng/ ăn mặc, nét mặt, lời nói, hành động.

- Biểu hiện cụ thể:

+ Lời nói/ thái độ: thay vì giận dữ như mọi ngày thì thầy ân cần, nhẹ nhàng “ Phrăng vào chỗ nhanh lên con”, “các con ơi…mong các con hết sức chú ý”.

+ Hành động: đọc bài cho học sinh, kiên nhẫn giảng giải; chuẩn bị mẫu viết mới viết bằng chữ rông…

+ Hình dáng/ ăn mặc: thầy mặc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn, cái mũ tròn bằng lụa đen; thầy đứng trên bục, cầm hòn phấn và dằn mạnh hết sức… thầy đứng đó đầu dựa vào tường giơ tay ra hiệu “Kết thúc rồi…đi đi thôi!”

+ Nét mặt: tái nhợt, không nói hết câu.

Câu 3: Phân tích một số chi tiết cụ thể trong suy nghĩ, cách nhìn nhận về thầy Ha-men và thái độ đối với việc học tiếng Pháp) để làm rõ diễn biến tâm trạng của nhân vật “tôi” trong buổi học cuối cùng”.

Trả lời:

Diễn biến tâm trạng của nhân vật “tôi” trong Buổi học cuối cùng” được thể hiện:

+ Suy nghĩ: 

* Cái đầu rỗng tuếch của em trước đó không có chỗ cho những cuốn sách, giờ đây những cuốn sách trở nên thân thiết như người bạn cố tri. 

* Nếu được chuộc lỗi dù chỉ một lần, một lần tỏ ra không phụ công thầy giáolà “đọc thật to, thật dõng dạc, không phạm một lỗi nào” cái quy tắc về phân từ khi thầy gọi đến thì dù “có phải đánh đổi gì cũng cam”

+ Cách nhìn nhận thầy Ha-men:

* Cách ăn mặc của thầy: long trọng, trang nghiêm đến mức thầy phải mặc áo rơ-đanh-gốt, đội mũ tròn bằng lụa đen thêu (thường chỉ dùng vào những hôm có thanh tra hoặc phát phần thưởng).

* Bài giảng của thầy hôm nay khúc chiết, trong sáng (kể cả môn ngữ pháp rắc rối), như rót vào tai học trò, biến cái khó thành cái dễ một cách đáng ngạc nhiên.

* Người thầy “muốn truyền thụ toàn bộ tri thức của mình, muốn đưa ngay một lúc tri thức ấy vào đầu óc chúng tôi”.

* Đồ dùng dạy học được thầy chuẩn bị kĩ càng: những tờ mẫu mới tinh, những con chữ viết bằng chữ “rông” của thầy thật đẹp.

+ Thái độ học tiếng Pháp:

* Chuẩn bị buổi học thì có ý định trốn đi chơi.

* Khi nghe thầy nói buổi học cuối cùng được học tiếng Pháp thì Phrăng có phần ăn năn hối lỗi, phải dừng lại một môn học chỉ “mới biết viết tập toạng”…

* Trong giờ ngữ pháp hôm nay, chính Phrăng đã kinh ngạc thấy mình sao lại hiểu nhanh đến thế.

Câu 4: Phần 5 của văn bản trên có nhiều chi tiết miêu tả đặc sắc: thầy Ha-men “người tái nhợt”, “nghẹn ngào, không nói được hết câu”, “cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết sức, thầy cố viết thật to: NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!” và “đầu dựa vào tường”, “chẳng nói”, chỉ "giơ tay ra hiệu”, ... Các chi tiết này đã giúp tác giả khắc hoạ được điều gì về thầy Ha-men?

Trả lời:

Phần 5 của văn bản trên có nhiều chi tiết miêu tả đặc sắc: thầy Ha-men “người tái nhợt”, “nghẹn ngào, không nói được hết câu”, “cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết sức, thầy cố viết thật to: NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!” và “đầu dựa vào tường”, “chẳng nói”, chỉ "giơ tay ra hiệu”, ... các chi tiết này khắc hoạ thành công thầy Ha-men là là người rất mực trân trọng buổi học cuối cùng. Mỗi một hành động và lời nói của thầy Ha-men chứa đựng sự đau xót nhưng cũng làm nổi bật lên vai trò, ý nghĩa cùng giá trị thiêng liêng của tiếng mẹ đẻ đối với việc bảo vệ chủ quyền dân tộc. Dòng chữ cuối cùng “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM” của thầy là tâm nguyện thay cho lời từ biệt, là tiếng nói sâu lắng tha thiết từ trái tim của một người yêu nước, yêu tha thiết tiếng mẹ đẻ.

Câu 5: Có người cho rằng: “Câu chuyện đã góp phần xây dựng, bồi dưỡng lòng yêu nước cho người đọc”. Ý kiến của em như thế nào?

Trả lời:

Ý kiến “Câu chuyện đã góp phần xây dựng, bồi dưỡng lòng yêu nước cho người đọc” là một ý kiến đúng, em đồng tình với ý kiến đó. Thông qua Buổi học cuối cùng, mỗi người trong chúng ta ít nhiều đều tự ý thức bản thân phải giữ gìn tiếng mẹ đẻ, chịu khó học hỏi phát triển tiếng Việt vươn cao vươn xa ra thế giới. Yêu tiếng mẹ đẻ chính là yêu nước, phát triển tiếng mẹ đẻ chính là phát triển đất nước.

Câu 6: Trong truyện “Buổi học cuối cùng”, em thích nhất nhân vật hoặc chi tiết, hình ảnh nào? Hãy viết một đoạn văn (khoảng 5-7 dòng) giải thích lí do vì sao em thích.

Trả lời:

Trong truyện ngắn Buổi học cuối cùng của An-phông-xơ Đô-đê, để lại trong tôi ấn tượng nhiều hơn cả chính là chi tiết cả lớp học im lặng tập viết, chỉ nghe thấy tiếng ngòi bút sột soạt trên giấy. Lớp học phải tập trung lắm mới có thể im lặng. Cũng phải vì tập trung lắm, im lặng lắm nên những tiếng sột soạt trên giấy vốn nhỏ, lại được nghe thấy rõ mồn một và được miêu tả. Chi tiết cho thấy cái nhìn tinh tế của nhà văn về cuộc sống. Đồng thời cũng cho thấy sự nghiêm trang của một lớp học vùng An-dát trong buổi học Pháp văn - tiếng mẹ đẻ của họ lần cuối cùng. Sự nghiêm trang ấy thể hiện lòng biết ơn, tôn trọng với người thầy đã gắn bó với họ suốt 40 năm, đồng thời cũng thể hiện tình yêu, lòng tôn kính với quê hương, Tổ quốc.

Nhằm giúp các em hiểu hơn về bài soạn này, các em có thể tham khảo thêm:

3. Hướng dẫn luyện tập

Câu hỏi: Nêu cảm nghĩ về một nhân vật mà em yêu thích trong văn bản Buổi học cuối cùng - An-phông-xơ Đô-đê, SGK Ngữ văn 7 tập 1 Cánh Diều.

Trả lời:

Bài làm 1

Đối với văn bản "Buổi học cuối cùng" nhân vật để lại nhiều ấn tượng nhất đó là thầy giáo Ha-men. Thầy giáo trong buổi học cuối cùng hiện lên trong ánh mắt của học sinh với  bộ lễ phục chỉ dùng vào những ngày đặc biệt khi có thanh tra hoặc phát thưởng: áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục diềm lá sen gấp nếp mịn và đội mũ tròn bằng lụa đen thêu. Thầy Ha-men hôm nay rất dịu dàng, không giận dữ quát mắng; kiên nhẫn giảng bài, chuẩn bị bài học rất chu đáo.  Thầy coi tiếng Pháp là vũ khí, là chìa khóa của chốn lao tù. Ca ngợi tiếng Pháp, tự phê bình mình và mọi người có lúc đã sao nhãng việc học tập và dạy tiếng Pháp. Thầy Ha- men xúc động mạnh, người tái nhợt, nghẹn ngào, không nói được hết câu, nhưng thầy đã dồn hết sức mạnh để viết lên bảng dòng chữ thật to: "Nước Pháp muôn năm". Thấy được người thầy luôn yêu tiếng mẹ đẻ, dành hết tâm huyết cho những học sinh của mình. Người thầy chính là người truyền những năng lượng tích cực và tư tưởng cho những bạn đọc.

Bài làm 2

Hình ảnh chú bé Phrăng trong văn bản " Buổi học cuối cùng " của nhà văn An-phông-xơ Đô-đê đã để lại cho em những ấn tượng sâu sắc. Thật vậy, Phrăng là một chú bé vô tư và hồn nhiên. Tuy đã trễ giờ đến lớp nhưng vì mải chơi, Phrăng đã có ý định trốn học và rong chơi ngoài đồng cỏ. Phrăng cũng như bao đứa trẻ khác, cậu ham chơi, hiếu động và vô lo vô nghĩ. Nhưng điều đặc biệt khiến em vô cùng yêu mến Phrăng đó là tình yêu nước thiết tha ở cậu bé. Tình yêu nước ấy được thể hiện rõ trong buổi học Pháp văn cuối cùng. Khi nghe thầy Ha-men thông báo người dân vùng An-dát không còn được học tiếng Pháp nữa, Phrăng đã cảm thấy sửng sốt, choáng váng và tức giận. Tâm trạng của Phrăng đã có sự biến đổi sâu sắc, cậu cảm thấy ân hận vì đã lãng phí thời gian học tập, không nhớ các quy tắc phân từ của tiếng Pháp. Khi nghe thầy Ha-men giảng bài, Phrăng cảm thấy trân trọng thầy giáo của mình, cậu cũng chưa bao giờ thấy mình hiểu bài nhanh đến thế. Diễn biến tâm trạng của Phrăng trong buổi học cuối cùng đã cho ta thấy được tình yêu nước sâu sắc và mãnh liệt ở chú bé. Em vô cùng yêu mến chú bé Phrăng!

4. Hỏi đáp về bài Buổi học cuối cùng - An-phông-xơ Đô-đê Ngữ văn 7 tập 1 Cánh Diều

Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn HỌC247 sẽ sớm trả lời cho các em. 

5. Một số văn mẫu bài Buổi học cuối cùng - An-phông-xơ Đô-đê Ngữ văn 7 tập 1 Cánh Diều

Qua văn bản Buổi học cuối cùng - An-phông-xơ Đô-đê, người đọc hiểu hơn về bối cảnh xã hội Pháp lúc bấy giờ, đồng thời cảm nhận được ước nguyện của người thầy luôn muốn học sinh giữ gìn tiếng dân tộc. Để cảm nhận được một cách sâu sắc về văn bản này, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:

NONE
ZUNIA9
 

 

YOMEDIA
AANETWORK
OFF