YOMEDIA
NONE

Bình giảng cảnh Thúy Kiều báo ân báo oán.

Bình giảng cảnh Thúy Kiều báo ân báo oán.

Theo dõi Vi phạm
ATNETWORK

Trả lời (1)

  • Một trong những đoạn trích nói lên tính cách và lòng người của nhân vật Thúy Kiều là đoạn trích"Thúy Kiều báo ân báo oán". Khi được Từ Hải cứu giúp khỏi phận long bong, bạc nổi thì cũng chính là lúc Kiều được cất lên tiếng nói của mình.

    Để nói hết tấm lòng "uống nước nhớ nguồn" "ăn quả nhớ kẻ trồng cây" mà dân gian thường nói để tô điểm cho con người của Thúy Kiều. Khi như được hồi sinh lần nữa, Kiều đầu tiên đã nghĩ đến là phải báo ân cho những người đã giúp đỡ mình trong con đường chông gai mà Nàng đã trải qua.

    Đó là sự báo ân đối với Thúc Sinh:

    "Nàng rằng: Nghĩa trọng nghìn non....

    Tại ai, ai há phụ lòng cố nhân"

    Nàng không đổ lỗi những gì mình trải qua, mình khó khăn, mình bị đày đọa thân xác là do Thúc Sinh. Hoàn toàn không, Nàng hiểu chuyện cuộc đời mình không phải do Thúc Sinh gieo bao cay đắng tủi nhục.

    Vì thế, Nàng luôn giữ mực, tỏ thái độ biết ơn đối với người đã giúp mình giữa lưng bước đường cùng. Với cách suy nghĩ của Nàng "trọng nghĩa " là trọng những gì người đã làm vì Nàng không phải cứ nhất thiết không làm đến nơi đến chốn mà Nàng phủ sạch tất cả những công lao đó.

    Khi đối thoại với Thúc Sinh, Nàng dùng ngôn ngữ xưa là "chàng" chứ không đặt quyền thế của nàng hiện tại mà ra vẻ. Qua đây, cho ta thấy được một Thúy Kiều không những nhan sắc hoàn mĩ mà có một tấm chân tình son sắt đối với những người giúp đỡ mình.

    Báo ân đã xong, đến lượt Nàng nghĩ đến những gì mình đã trải qua; đó không chỉ là nỗi đau về thể xác mà còn là nỗi đau rỉ máu tận tâm hồn Nàng. Nàng báo oán đối với người phụ nữ độc ác, mưu mẹo không ai khác đó chính là Hoạn Thư:

    "Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây...

    Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều"

    Vẫn là lối xưng cũ đối với Hoạn Thư, Nàng xưng với người phụ nữ đó hai chữ"tiểu thư". Thúy Kiều không những giữ đúng phép lịch sự trong đối thoại mà còn tỏ ra một cách tinh tế. Nàng nói đến nỗi cay nghiệt của người phụ nữ đó đã dấn thân lên con người Nàng, làm nhơ nhuốc vẻ đẹp vốn có của Nàng.

    "Rằng: Tôi chút phận đàn bà...

    Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai"

    Nhưng với sự toan tính, mưu mẹo cách đối thoại của Hoạn Thư làm cho Kiều không những trị tội mà còn tha tội. Bởi vì cách nói lươn lẹo của người phụ nữ nham hiểm đó đánh vào tâm trí của một cô gái bản tính lương thiện, dùng tình người để trị tình người chứ không phải một cách quá ác độc.

    Nguyễn Du đã vẻ nên một Thúy Kiều mang đậm vẻ đẹp nhân hậu. từ bi của con gái Việt nam nói chung.

    Đoạn trích đã làm rõ nên một Thúy Kiều với tấm lòng đầy nhân ái, một tấm lòng khoan dung vô cùng. Chỉ qua mấy câu thơ mà nói hết được vẻ đẹp tính cách của nhân vật chúng ta càng thán phục ngòi bút của Nguyễn Du

    Trên hành trình lưu lạc của cuộc đời, Kiều đã phải nếm đủ mọi điều cay đắng, tủi nhục "hết nạn nọ đến nạn kia" đã đẩy nàng vào con đường tuyệt vọng. Trong hoàn cảnh nghiệt ngã đó, Từ Hải xuất hiện như một làn gió mới làm thay đổi đời Kiều - Từ Hải, người anh hùng cái thế không những cứu Kiều thoát khỏi cuộc sống lầu xanh còn đưa nàng từ thân phận thấp hèn lên địa vị của một quan tòa cầm cán cân công lý để thực hiện việc "đền ơn trả oán". Đoạn trích miêu tả cảnh Thúy Kiều đền ơn những người đã cưu mang giúp đỡ nàng, đồng thời trừng trị những kẻ bất nhân, tàn ác.

    Cảnh "báo ân báo oán" là đỉnh điểm diễn biến của cốt truyện được kể trong một đoạn thơ dài 162 câu (từ câu 2289 đến câu 2450). Những đối tượng được đền ơn là Thúc Sinh, mục Quan gia, Sư vãi, Giác Duyên. Những tên báo oán là Hoạn Thư, Bạc Hà, Bạc Hạnh, Ưng Khuyến, Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh. Đoạn trích giảng đã được lược bớt, chủ yếu nói rõ việc Thúy Kiều đền ơn Thúc Sinh và trả oán Hoạn Thư.

    Nhân vật cuộc chuyện trò thân mật, Thúy Kiều kể hết mọi nỗi gian truân của mình. Từ Hải nổi giận cho quân đi bắt cóc các tên tội phạm, đồng thời cùng cho mời những người có ân nghĩa rồi giao cho Kiều tự đứng ra xét xử "đền ơn trả oán".

    Phiên tòa được mở ra đầy đủ "ba quân" gươm lớn giáo dài tua tua, sáng quắc, hàng trong hàng ngoài, vệ nọ, cơ kia.. Trong quang cảnh oai nghiêm đó, Kiều được Từ Hải trao quyền chủ động xét xử theo một trình tự rõ ràng: đền ơn trước, báo oán sau.

    Thúc Sinh được mời tới nơi xử án đầu tiên "cho gươm mời đến Thúc lang". Trước phong canh oai nghiêm của phiên tòa, Thúc Sinh hoảng hốt tới mức mất cả thần sắc "mặt như chàm đổ mình dường dè run''. Thúc Sinh sợ có lẽ vì tính khí của Thúc Sinh nhút nhát, ngay cả việc bảo vệ người mình yêu cũng không làm được để cho Hoạn Thư tha hồ ra tay hành hạ Kiều. Hơn ai hết, Thúc Sinh ý thức đầy đủ về vấn đề đó nên nỗi sợ hãi của chàng đã đẩy lên đến cao độ. Nhưng dù sao thì ở Thúc Sinh vẫn được xem là ân nhân của Kiều, vì Thúc Sinh đã cứu nàng ra khỏi bùn nhơ ở Thanh lâu để cưới nàng làm vợ lẽ và tạo cho Kiều có những ngày hạnh phúc của cuộc sống gia đình êm ấm. Với một con người phúc hậu như Kiều, nàng rất cảm thông nỗi bất lực của Thúc Sinh và không thể quên ơn chàng được. Thực ra Kiều không luận tội Thúc Sinh mà lại càng tỏ ra trân trọng chàng. Trong cuộc tình chồng vợ (dù là vợ lẽ) Thúy Kiều vẫn cho đó là "nghĩa nặng nghìn non" thì làm gì có chuyện phụ lòng. Nàng đặt mình vào những ngày xưa cũ trong quan hệ thân mật, trân trọng, thủy chung nên mới có cách dùng những từ "người cũ", "cố nhân", "nghĩa", "tạ lòng", và điển cố "sâm thương". Cách nói này phù hợp với tính cách của Thúy Kiều. Chính đó mới là vẻ đẹp của công bằng lý tưởng, của công lý nhân dân, kể cả việc đền ơn bằng "gấm trăm cuốn bạc nghìn cân" mà cho là: "tạ lòng để xứng báo ân gọi là". Đây là nét đẹp trong quan niệm của Kiều. Tấm lòng "nghĩa nặng nghìn non" thì gấm vóc, bạc vàng nào có thể cân đo được. Đối với Thúc Sinh, Kiều đặc biệt thông cảm, chia sẻ. Kiều hiểu rõ nỗi đau khổ của nàng không phải là do Thúc Sinh gây ra mà thủ phạm chính là Hoạn Thư. Chính vì vậy mà khi nói với Thúc Sinh, Kiều đã nói về Hoạn Thư. Điều đó chứng tỏ vết thương lòng mà Hoạn Thư gây ra cho nàng đang còn quá xót xa. Khi nói về Hoạn Thư giọng Kiều thay đổi hẳn, đó là giọng điệu của một quan tòa có hàm ý mỉa mai đe dọa:

    "Vợ chàng quỷ quái tinh ma

    Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau"

    Nguyễn Du cực kì khéo léo trong việc sử dụng một cách hiệu quả nhất những thành ngữ quen thuộc "kẻ cắp bà già gặp nhau", "kiến bò miệng chén" để thể hiện hành động trừng phạt cái ác theo quan điểm của nhân dân nên ngôn ngữ cũng thật nôm na, bình dị theo cách nói của nhân dân.

    Tiếp đến là cảnh Thúy Kiều báo oán Hoạn Thư. Không khí phiên tòa đã thay đổi hẳn. Cái giọng ân tình, dịu hiền, đằm thắm của người con gái hiền lành, trung hậu, đốp chát, lạnh lùng của một thiếu phụ từng trải, nếm đủ mùi cay đắng hơn mười năm trời. Giờ đây đối diện với Hoạn Thư - chính danh thủ phạm, Kiều cũng đanh đá, sắc sảo như ai.

    Đầu tiên là cách nói moi gan đối thủ:

    Thoắt trông nàng đã chào thưa:

    Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây.

    Cách xưng hô cùng vẫn như ngày xưa "chào thưa", "tiểu thư", khi Thúy Kiều còn là thân phận của kẻ tôi đòi ở nhà họ Hoạn cách xưng hô này của Kiều vào thời điểm hiện tại đã thọc sâu vào con người "quỷ quái tinh ma" những đòn đau của kẻ đang bị thất thế. Nay Hoạn Thư không còn là con gái của nhà "họ Hoạn danh gia" nữa mà là kẻ tội phạm đã bị tóm cổ về đây để xử án mà Kiều là quan tòa quyết định đến tương lai, số phận của Hoạn Thư.

    Tiếp theo là giọng điệu đay nghiến, đốp chát của Thúy Kiều.

    Đàn bà dễ có mấy tay,

    Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan!

    Dễ dàng là thói hồng nhan,

    Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.

    Phải nói là khi cần thiết, Thúy Kiều càng tỏ rõ mình là tay cũng chẳng vừa gì. Với cái giọng đay nghiến khiến câu thơ như dằn ra từng tiếng, khi từ ngữ được lặp lại: dễ có, dễ dàng, mấy tay, mấy mặt, đời xưa, đời này, mấy gan, càng cay nghiệt, càng oan trái. Cách nói này hoàn toàn phù hợp với con người "quỷ quái tinh ma" như Hoạn Thư "Bề ngoài thơn thớt nói cười - Bề trong nham hiểm giết người không dao".

    Giọng nói của Kiều tỏ rõ nỗi căm giận cao độ cho thấy nàng quyết trừng trị Hoạn Thư theo đúng quan niệm "Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa". Thái độ của Kiều thì ta thấy rất rõ, nhưng có điều dường như Kiều đã bỏ rơi mất vai trò của người xử án và biến mình thành người đối thoại ngang hàng với kẻ thù của mình trong tư thế một người đàn bà mà chưa có cách luận tội cụ thể chỉ còn ở mức độ chung chung, hơn thiệt giữa đàn bà với nhau. Lợi dụng tình huống này mà Hoạn Thư đã tương kế tựu kế lấy chuyện đàn bà mà xoay xở. Trong phút giây đầu Hoạn Thư "hồn lạc phách xiêu" nhưng rồi Hoạn Thư cùng nhanh chóng trấn tĩnh "liệu điều kêu ca".

    Rằng: Tôi chút phận đàn bà

    Ghen tuông thì cũng người ta thường tình

    Nghĩ cho khi gác viết kinh

    Với chi khỏi cứa đứt tình chẳng theo

    Lòng riêng riêng những kính yêu.

    Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai

    Trót đã gây việc chông gai

    Còn mơ tượng bé thương bài nào chăng.

    Đúng là lòi lẽ của con nhà thượng thư họ Hoạn "nói điều ràng buộc thì tay cũng già". Trước tiên Hoạn Thư dựa vào tâm lí thương tình của người phụ nữ để gỡ tội: "Rằng: "Tôi chút phận đàn bà - Ghen tuông thì cũng người ta thường tình". Lý lẽ của Hoạn Thư thật cao siêu trong nghệ thuật bào chữa. Chỉ trong một khoảnh khắc thôi là Hoạn Thư đã lôi kéo Kiều về phía mình hoặc ít ra Kiều cũng một phần nào chia sẻ một phần về "chút phận đàn bà". Đã là đàn bà thì ai ai cũng vậy chứ chẳng riêng gì Hoạn Thư. Giảm nhẹ mọi tội lỗi xuống chuyện đàn bà, để đàn bà dễ thông cảm về việc này, nếu Hoạn Thư có tội thì cũng là do tâm lý chung của giới nữ: "chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai".

    Hẳn nhiên Hoạn Thư biết giấu những gì nên giấu để chạy trốn tội lỗi của mình như những việc đánh đập, bắt cóc, hành hạ, đày đọa Kiều xuống hàng con hầu đứa ở mà chỉ kế lại "công" đã cho Kiều ra viết kình ở gác Quan Âm và cũng bắt giữ khi Kiều bỏ trốn ra khỏi nhà họ Hoạn. Đây cũng là thủ thuật ngụy biện độc đáo, và cuối cùng là Hoạn Thư nhận tất cả tội lỗi về mình và chờ mong tấm lòng khoan dung độ lượng như trời bể của Kiều mà tha cho: "Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng".

    Xét về mặt khôn ranh, tráo trở thì Hoạn Thư không có đối thủ. Còn với Kiều thì chẳng qua dày dặn phong sương, chịu đau chịu khổ là nhiều chứ làm gì bằng cái khôn ranh, xảo quyệt có huyết thống gia đình "lại bộ" của Hoạn Thư. Ngay cả Thúc Sinh kia thì cũng chẳng là gì đối với Hoạn Thư kia mà. Nguyên là một người có tội tày đình với Kiều mà khi nói ra thì sự việc nhẹ nhàng cốt là để cảm thông, xóa tội. Cái giọng điệu "quỷ quái tinh ma" ấy của Hoạn Thư đã làm xiêu lòng Kiều. Kiều đành phải chấp nhận Hoạn Thư là người "Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời". Hoạn Thư đã đẩy Kiều vào chỗ khó xử, "tha ra thì cùng mấy đời - làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen". Thái độ khoan dung, độ lượng của Kiều thì rất rõ, cũng mới đây thôi Kiều quyết tâm trả oán để cho được hả dạ, cho vết thương lòng của Kiều được xoa dịu đi phần nào. Nhưng rồi mọi sự đã đảo lộn trong khoảnh khắc, vì Hoạn Thư đã "tri quá" thì cũng nên tha tội và Kiều đã "truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay".

    Việc xét xử Hoạn Thư có một kết cuộc thật bất ngờ, nhưng thực ra nó cũng phù hợp với logic đoạn văn, với tính cách nhân vật. Kiều tha bổng Hoạn Thư không hoàn toàn phụ thuộc vào sự "tự bào chữa" mà chủ yếu là do tấm lòng độ lượng của Kiều. Cách cư xử này của Kiều phần nào cũng phù hợp với quan niệm triết lí dân gian: "Đánh người chạy đi chứ không đánh người chạy lại". Dù sao thì tên tiểu thư ấy đã bị tóm cố đến phiên tòa đã "hồn lạc phách xiêu", đã "khấu đầu dưới trướng", đã kêu ca xin thương tưởng, nghĩa là công lý đã phần nào được thực hiện. Việc thay đổi ngôi đã rõ ràng và Kiều đã trở thành vị quan tòa cầm cán cân công lý để xét xử.

    Đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán có một kết cấu phù hợp với tính cách nhân vật, với tâm lí nhân dân và tính chất lý tưởng của đạo đức. Thường tình thì con người cái oán ghi sâu hơn cái ân, trả oán được nghĩ đến trước trả ân. Đó là cảm tính, là tâm lí tự nhiên. Nhưng ở đây thì hoàn toàn ngược lại. Sự kiện đó đã phản ánh phẩm chất của Thúy Kiều - Một con người trung hậu vị tha, nghĩ đến người khác hơn nghĩ đến mình nên cái ân được trọng hơn cái oán. Và đây cũng còn là cái lẽ công bằng của nhân dân; quý trọng ân nghĩa hơn hận thù. Đây là điều mà ta cảm nhận được từ huyết thống của dân tộc ta.

    Đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán thể hiện tài năng sáng tạo của thiên tài văn học Nguyễn Du trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Chỉ cần vài nét chấm phá của nghệ thuật miêu tả ước lệ, Thúc Sinh hiện lên là con người nhút nhát trông thật thảm thương, và đặc biệt là cách của nhân vật: Hoạn Thư khôn ngoan, sắc sảo; Thúy Kiều nhân nghĩa, bao dung, độ lượng trong việc xét xử "đền ơn trả oán". Và qua đó, cũng đã phản ánh được khát vọng, ước mơ công lí chính nghĩa của thời đại Nguyễn Du.

      bởi khanh nguyen 16/01/2020
    Like (0) Báo cáo sai phạm

Nếu bạn hỏi, bạn chỉ thu về một câu trả lời.
Nhưng khi bạn suy nghĩ trả lời, bạn sẽ thu về gấp bội!

Lưu ý: Các trường hợp cố tình spam câu trả lời hoặc bị báo xấu trên 5 lần sẽ bị khóa tài khoản

Gửi câu trả lời Hủy
 
NONE

Các câu hỏi mới

AANETWORK
 

 

YOMEDIA
ATNETWORK
ON