YOMEDIA

H Yziang's Profile

H Yziang

H Yziang

20/07/2003

Số câu hỏi 0
Số câu trả lời 687
Điểm 3348
Kết bạn

Bạn bè (0)

Hoạt động gần đây (719)

  • H Yziang đã trả lời trong câu hỏi: Vì sao nhân dân các thuộc địa ở Bắc Mĩ đấu tranh chống thực dân Anh? Cách đây 6 năm

    - Nền kinh tế ở 13 thuộc địa này sớm phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa.

    - Tuy nhiên, thực dân Anh tìm mọi cách ngăn cản sự phát triển công, thương nghiệp của các thuộc địa ở Bắc Mĩ như: cướp đoạt tài nguyên, ban hành các loại thuế nặng nề, độc quyền buôn bán trong và ngoài nước,...

    - Vì vậy, cư dân ở các thuộc địa Bắc Mĩ mâu thuẫn gay gắt với chính quốc. Các tầng lớp nhân dân thuộc địa đều đấu tranh chống ách thống trị của thực dân Anh

  • H Yziang đã trả lời trong câu hỏi: Nêu tình hình kinh tế nước Mĩ sau chiến tranh thế giới thứ 2? Cách đây 6 năm

    - Nước Mĩ ở xa chiến trường, được hai đại dương là Đại Tây Dương và Thái Bình Dương che chở, không bị chiến tranh tàn phá.

    - Được yên ổn phát triển sản xuất và bán vũ khí, hàng hoá cho các nước tham chiến.

  • H Yziang đã trả lời trong câu hỏi: Trình bày cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và hậu quả? Cách đây 6 năm

    Năm 1929. cuộc khủng hoảng kinh tế bùng nổ trong thế giới tư bản chủ nghĩa và kéo dài đến năm 1933 mới chấm dứt.
    Đây là cuộc khủng hoảng “thừa” do sản xuất ồ ạt, chạy đua theo lợi nhuận trong những năm 1924 - 1929. dẫn đến tình trạng hàng hóa ế thừa trong khi người lao động không có tiền mua.
    Khủng hoảng kinh tế đã tàn phá nặng nề nền kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa. Mức sản xuất bị đẩy lùi lại hàng chục năm. Hàng trăm triệu người (công nhân, nông dân và gia đình họ) rơi vào tình trạng đói khổ.
    Một số nước tư bản châu Âu như Anh, Pháp... tìm cách thoát ra khỏi khủng hoảng bằng những chính sách cải cách kinh tế - xã hội. Trong khi đó, các nước Đức, I-ta-li-a (và Nhật Bản ở châu Á) đã phát xít hóa chế độ thống trị và phát động cuộc chiến tranh để phân chia lại thế giới.
    Khủng hoảng kinh tế tàn phá nghiêm trọng nước Đức. Để đối phó lại khủng hoảng kinh tế và phong trào cách mạng ngày càng dâng cao, giai cấp tư sản cầm quyền quyết định đưa Hít-le - thủ lĩnh Đảng Quốc xã Đức, lên nắm chính quyền, Đảng Cộng sản Đức đã kiên quyết đấu tranh nhưng không ngăn cản được quá trình ấy. Ngày 30 - 1 - 1933, Hít-le lên làm Thủ tướng và ngay sau đó đã biến nước Đức thành một lò lửa chiến tranh.

  • H Yziang đã trả lời trong câu hỏi: Nguyên nhân của cuộc cách mạng Tân Hợi? Cách đây 6 năm

    Cách mạng Tân Hợi là cuộc cách mạng do bác sĩ Tôn Dật Tiên chủ xướng năm 1911 nhằm lật đổ chế độ quân chủ phong kiến Trung Hoa và thành lập Trung Hoa Dân Quốc, là nền cộng hòa đầu tiên ở Á Châu. 
    Hoàn cảnh dẫn đến Cách Mạng 

    Cách mạng Tân Hợi khởi đầu bởi lòng dân Trung Hoa phẫn nộ trước nạn tham nhũng của triều đình Mãn Thanh, bởi sự bất lực của Nhà Thanh khi đối đầu với các cường quốc Tây Phương đang xâu xé Trung Quốc, và bởi người Hán từ lâu coi Nhà Thanh (xuất phát từ Mãn Châu) là một ngoại triều thống trị đất nước của họ. 

    Tháng 8 năm 1905, Tôn Trung Sơn thành lập Trung Quốc Đồng minh hội trên cơ sở thống nhất ba tổ chức lớn (Hoa Hưng Hội, Hưng Trung hội và Quang Phục hội) và một số tổ chức nhỏ khác nhằm “đánh đuổi Mãn Thanh, khôi phục Trung Hoa, thành lập dân quốc, chia ruộng đất cho dân cày”. Đường lối của Đồng minh hội có nhiều nhược điểm, thể hiện tính chất không tưởng, nhưng cũng cổ vũ phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân. 

    Trong những năm 1906-1908, Đồng minh hội lãnh đạo 10 cuộc khởi nghĩa chống Mãn Thanh, nhưng đều thất bại.

  • H Yziang đã trả lời trong câu hỏi: Vì sao thực dân Pháp xâm lược Việt Nam? Cách đây 6 năm

    - Muốn chiếm nước ta, biến nước ta thành thuộc địa của chúng để vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động...
    - Lấy cớ bảo vệ đạo Gia Tô.

  • H Yziang đã trả lời trong câu hỏi: Nêu các giai đoạn hình thành phát triển chế độ phong kiến Việt Nam? Cách đây 6 năm

    1. Tổ chức bộ máy nhà nước

    Đất nước dần dần ổn định. Năm 1009, nhà Lý được thành lập. Năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long (Hà Nội), mở ra một giai đoạn phát triển mới. Năm 1054, vua Lý Thánh Tông quyết định đổi tên nước là Đại Việt.

    Từ thế kỉ XI đến thế kỉ XV, trải qua các triều đại Lý, Trần, Hồ, Lê, chính quyền trung ương được tổ chức ngày càng chặt chẽ. Vua (Hoàng đế) đứng đầu nhà nước, quyết định mọi việc quan trọng. Quyền hành của vua ngày càng cao. Ở thời Lý, Trần, Hồ, giúp vua trị nước có Tể tướng và một số đại thần. Bên dưới là các cơ quan trung ương như sảnh, viện, đài.

    Cả nước được chia thành nhiều lộ, trấn, do các hoàng tử (thời Lý) hay An phú sứ (thời Trần, Hồ) cai quản. Dưới lộ, trấn là các phủ, huyện, châu, đều có quan lại của triều đinh trông coi. Đơn vị hành chính cơ sở là xã. Thời Trần, những người đứng đầu xã được gọi là Xã quan.

    Năm 1428, sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, lãnh tụ tối cao của nghĩa quân Lam Sơn là Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, lập ra nhà Lê. khôi phục quốc hiệu Đại Việt. Nhà nước quân chủ mới được tổ chức theo mô hình thời Trần, Hồ.

    Từ những năm 60 của thế kỉ XV, khi đất nước đã cường thịnh, vua Lê Thánh Tông tiến hành một cuộc cải cách hành chính lớn. Ở Trung ương, chức Tế tướng và các chức Đại hành khiển bị bãi bỏ. Vua trực tiếp quyết định mọi việc. Bên dưới là 6 bộ. Các cơ quan như Ngự sử đài, Hàn lâm viện được duy trì với quyền hành cao hơn. Cả nước được chia thành 13 đạo thừa tuyên. Mỗi đạo đều có 3 ti trông coi các mặt dân sự, quân sự, an ninh. Dưới đạo là các phủ. huyện, châu như cũ. Người đứng đầu xã là Xã trưởng, do dân bầu.

    Ở thời Lý, Trần, phần lớn các quan chức cao cấp là quý tộc vương hầu hoặc con em quan lại cao cấp. Khi giáo dục phát triển, nhà nước bắt đầu đưa những người đỗ đạt vào làm quan. Thời Lê, giáo dục thi cử trở thành nguồn đào tạo và tuyển chọn quan lại chủ yếu.

    Vua Lê Hiến Tông (1497 - 1504) đã viết : “Nhân tài là nguyên khí của nhà nước, nguyên khí mạnh thì trị đạo mới thịnh. Khoa mục là đường thẳng của quan trường, đường thẳng mở thì chân nho mới có".

    (Lịch triều hiến chương loại)

    Quý tộc, quan lại được ban phẩm hàm, cấp lương bổng và ruộng đất.

    2. Luật pháp và quân đội

    Năm 1042, vua Lý Thái Tông ban hành bộ Hình thư - bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta. Thời Trần, nhà nước có bộ Hình luật. Thời Lê, một bộ luật đầy đủ được ban hành với tên gọi Quốc triều hình luật (còn gọi là Luật Hồng Đức), gồm hơn 700 điều, quy định khá đầy đủ các tội danh và hình phạt liên quan đến hầu hết các hoạt động xã hội, bảo vệ quyền hành của giai cấp thống trị, một số quyền lợi chân chính của nhân dân và an ninh đất nước.

    Một số điều trong bộ luật :

    - Khi xa giá vua đi qua mà xông vào hàng người đi theo thì xử tội đồ, nếu xông vào đội cận vệ thì xử chém. Lầm lỡ thì giảm một bậc.

    - Bán ruộng đất ở biên cương cho người ngoại quốc thì xử chém.

    - Đào trộm đê đập làm thiệt hại nhà cửa, lúa má thì xử đồ, lưu, bắt đền tổn hại.

    Quân đội sớm được tổ chức quy củ, gồm hai bộ phận : quân bảo vệ nhà vua và kinh thành (cấm quân) và quân chính quy, bảo vệ đất nước (ngoại binh hay lộ binh), được tuyển theo chế độ “ngụ binh ư nông”. Quân đội được trang bị vũ khí đầy đủ ; thời Hồ, thời Lê đã có một vài loại súng. Thời Trần, khi có chiến tranh, nhà nước cho phép các vương hầu được mộ quân tham gia đánh giặc. Nhân dân các làng cũng được phép tổ chức dân binh.

    3. Hoạt động đối nội và đối ngoại

    Vấn đề bảo vệ an ninh đất nước được các triều đại đương thời rất coi trọng. Nhân dân tuy phải làm đầy đủ nghĩa vụ đi lính, lao dịch, nộp thuế, chăm lo bảo vệ đê điều nhưng được nhà nước coi trọng và quan tâm đến đời sống.

    Các triều đại phong kiến đều có chính sách đoàn kết với các dân tộc ít người, nhất là với các tù trưởng ở vùng biên giới. Những lúc có ngoại xâm, nhà nước đều huy động hoặc khuyến khích họ tham gia kháng chiến, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Tuy nhiên, nhà nước phong kiến cũng rất nghiêm khắc đối với những tù trưởng dân tộc ít người có hành động phản loạn hoặc muốn tách ra khỏi cộng đồng.

    Trong quan hệ đối ngoại, chủ yếu đối với các triều đại phương Bắc, các triều đại phong kiến Đại Việt thực hiện đầy đủ lệ triều cống nhưng luôn giữ vững tư thế của một quốc gia độc lập, tự chủ. Khi bị xâm lược, nhà nước và nhân dân sẵn sàng chiến đấu đến cùng để bảo vệ Tổ quốc, nhưng khi chiến tranh kết thúc, quan hệ hoà hiếu lại được thiết lập trên tinh thần mỗi bên “đều chủ một phương”.

    Đối với các nước láng giềng ở phía tây và phía nam như Lan Xang, Cham-pa. Chân Lạp nhà nước Đại Việt luôn giữ quan hệ thân thiện, mặc dù đôi lúc xảy ra chiến tranh.

    Trong các thế kỉ X - XV, quốc gia Cham-pa không còn ổn định như trước. Các vương triều thay thế nhau, tiếp tục duy trì quyền thống trị nhưng có lúc chịu sự khống chế của Chân Lạp hoặc có lúc đem quân đánh lên Đại Việt. Cuối thế kỉ XV, nhà nước Cham-pa suy sụp.

  • H Yziang đã trả lời trong câu hỏi: Nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của ta? Cách đây 6 năm

    - Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng được thể hiện trong các văn kiện:

    + Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (12/12/1946).

    Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh (19/12/1946).

    + Tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh (9/1947).

    - Nội dung cúa đường lối kháng chiến là: Kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế.

  • Những đề nghị cải cách ở Việt nam cuối thế kỉ XIX

    - Trong hoàn cảnh đất nước bị khủng hoảng, nhân dân sống cơ cực, địch họa kề bên, một số sĩ phu yêu nước tiến bộ hi vọng cải cách để cứu vãn tình thế. Vào những năm 60 của thế kỉ XX,  có nhiều ý kiến đề xuất cải cách được dâng lên triều đình.

    - Tiêu biểu là:

    + Năm 1868, Trần Đình Túc và Nguyễn Huy Tế xin mở cửa biển Trà Lí (Nam Định) thông thương với bên ngoài; Đinh Văn Điền xin khai khẩn ruộng hoang và khai mỏ, phát triển buôn bán, chấn chỉnh quốc phòng.

    + 1863-1871: Nguyễn Trường Tộ đã kiên trì gửi triều đình 60 bản điều trần, đề cập đến một loạt vấn đề như chấn chỉnh bộ máy quan lại, phát triển công - thương nghiệp và tài chính, chỉnh đốn võ bị, mở rộng ngoại giao, cải tổ giáo dục...

    + Năm 1872, Viện Thương Bạc xin mở ba cửa biển ở miền Bắc và miền Trung để thông thương với bên ngoài.

    + 1877-1882: Nguyễn Lộ Trạch dâng hai bản "Thời vụ sách" lên vua Tự Đức đề nghị chấn hưng dân khí, khai thông dân trí, bảo vệ đất nước.

    * Những đề nghị cải cách này không được thực hiện, vì:

    - Đất nwocs khủng hoảng: kinh tế suy yếu, chính trị - xã hội không ổn định. Nhân tài vật lực kiệt quệ không đủ khả năng tiến hành.

    - Triều đình nhà Nguyễn bảo thủ, cố chấp, bất lực trong việc thích ứng với hoàn cảnh, khư khư ôm lấy cái cũ và không chịu đổi mới (do ý thức hệ phong kiến quá lâu, quá sâu). Những người có tư tưởng cải cách, ủng hộ cải cách không phải là người nắm quyền lực cao trong triều đình.

    - Thiếu sự đồng thuận từ trên (vua và triều đình) đến dưới (thiếu sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân)... Bản thân các đề nghị cải cách còn có những hạn chế: tản mạn, rời rạc, không cụ thể, thiếu tính toàn diện, thiếu tính khả thi.

    - Đất nước đã bị Pháp xâm lược (hoàn cảnh đất nước có chiến tranh) nên khó tiến hành cải cách.

    * Điều kiện để thực hiện một cuộc cải cách:

    - Cải cách là yêu cầu khách quan của lịch sử, muốn tồn tại và phát triển nhất thiết phải cải cách.

    - Để một cuộc cải cách thành hiện thực phải có các điều kiện:

    + Sự đồng thuận từ trên xuống dưới, quyết tâm của người lãnh đạo, ủng hộ của nhân dân.

    + Phải có điều kiện thuận lợi đảm bảo công cuộc cải cách giành thắng lợi.

    + Đề nghị cải cách phù hợp với đất nước (thiên thời, địa lợi, nhân hòa).

  • H Yziang đã trả lời trong câu hỏi: Kể tên các nhà cải cách cuối thế kỉ XIX? Cách đây 6 năm

    - Trần Đình Túc và Nguyễn Huy Tế (1868): xin mở cửa biển Trà Lí (Nam Định). Đinh Văn Điền xin đẩy mạnh việc khai khẩn đất hoang và khai mỏ, phát triển buôn bán, chấn chỉnh quốc phòng.

    - Nguyễn Trường Tộ (1863 - 1871): đề nghị chấn chỉnh bộ máy quan lại. phát triển công, thương nghiệp và tài chính, chỉnh đốn võ bị, mở rộng ngoại giao, cải tổ giáo dục,…

    - Nguyễn Lộ Trạch (1877 - 1882): đề nghị chấn hưng dân khí, khai thông dân trí, bảo vệ đất nước.

  • H Yziang đã trả lời trong câu hỏi: Trình bày những hạn chế của các đề nghị cải cách cuối thế kỉ XIX? Cách đây 6 năm

    * Những hạn chế của các đề nghị cải cách cuối thế kỉ XIX :
    Các đề nghị cải vẫn mang tính chất lẻ tẻ. rời rạc, chưa xuất phát từ những cơ sở bên trong, chưa động chạm tới những vấn đề cơ bản của thời đại...

Điểm thưởng gần đây (15)

  • H Yziang: câu trả lời bị xoá, user trả lời -10 (-10đ) Cách đây 1 tháng
  • H Yziang: thêm 1 user like, cộng 1 (+1đ) Cách đây 2 năm
  • H Yziang: câu trả lời bị xoá, user trả lời -10 (-10đ) Cách đây 2 năm
  • H Yziang: câu trả lời vi phạm được phục hồi, user trả lời +10 (+10đ) Cách đây 2 năm
  • H Yziang: câu trả lời bị xoá, user trả lời -10 (-10đ) Cách đây 2 năm
  • H Yziang: câu trả lời bị xoá, user trả lời -10 (-10đ) Cách đây 2 năm
  • H Yziang: câu trả lời vi phạm được phục hồi, user trả lời +10 (+10đ) Cách đây 2 năm
  • H Yziang: câu trả lời vi phạm được phục hồi, user trả lời +10 (+10đ) Cách đây 2 năm
  • H Yziang: câu trả lời vi phạm được phục hồi, user trả lời +10 (+10đ) Cách đây 2 năm
  • H Yziang: câu trả lời vi phạm được phục hồi, user trả lời +10 (+10đ) Cách đây 2 năm
AANETWORK
 

 

ATNETWORK
ON