Tả cảnh đẹp của Côn Sơn
Tả cảnh đẹp của Côn Sơn
Trả lời (3)
-
Côn Sơn là nơi có phong cảnh thiên nhiên thơ mộng, hữu tình với núi, rừng, suối, hồ, đan xen hòa hợp. Phía bắc Côn Sơn giáp núi Ngũ Nhạc, cao 238m, trên đỉnh có miếu "Ngũ Nhạc linh từ" thờ thần núi. Ngay bên cạnh là núi Kỳ Lân (còn gọi là núi Côn Sơn) cao 200m, trên đỉnh có Bàn Cờ Tiên và di tích nền của Am Bạch Vân. Rừng ở Côn Sơn chủ yếu là thông, bạt ngàn, xanh tốt. Suối Côn Sơn chảy rì rầm từ Bắc xuống Nam, giống như tiếng đàn cầm vang vọng giữa núi rừng mênh mông… Bắc qua suối là cây cầu Thấu Ngọc - một công trình tuyệt mỹ đã đi vào thơ ca, sử sách. Mỗi buổi sáng, sương mờ trắng xóa bao phủ đỉnh núi, trưa đến, Côn Sơn lại khoác lên mình tấm áo tươi xanh, ngan ngát hương bay.
Cảnh đẹp Côn Sơn từ trước tới nay đã quyến rũ bao tao nhân, mặc khách. Chả thế mà, sáu thế kỷ trước, Côn Sơn đã như cảnh thần tiên qua ngòi bút của Nguyễn Phi Khanh (thân sinh ra Nguyễn Trãi) tả trong "Thanh Hư Động ký: "Khói đầu non, ráng ngoài đảo, gấm vóc phô bầy/ Hoa dọc suối, cỏ ven rừng biếc hồng phấp phới/ Bóng mát để nghỉ, chỗ vắng để ngồi, mùi thơm để ngửi, sắc đẹp để xem...". Với Nguyễn Trãi, Côn Sơn thật hữu tình, được thể hiện qua tác phẩm Côn Sơn Ca: “Côn Sơn suối chảy rì rầm/ Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai…”.
Không chỉ được thiên nhiên ưu ái ban tặng cảnh đẹp, Côn Sơn còn là miền đất địa linh nhân kiệt.
Hơn một ngàn năm trước, Định Quốc Công Nguyễn Bặc, thủy tổ của dòng họ Nguyễn Trãi đã lập căn cứ ở Côn Sơn để đánh sứ quân Phạm Phòng Át, một trong 12 loạn sứ quân vào cuối thời nhà Ngô (thế kỷ thứ 10), giúp Đinh Tiên Hoàng thống nhất đất nước. Thế kỷ 13, vua Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang, ba vị lập ra thiền phái Trúc Lâm đã về Côn Sơn thuyết pháp, xây dựng chùa Côn Sơn thành chốn Tổ đình, một thiền viện lớn của triều Trần và giao cho Huyền Quang trụ trì. Trần Nguyên Đán - quan Đại tư đồ phụ chính, nhà thơ, nhà lịch pháp lớn thời Hậu Trần đã về Côn Sơn dựng Thanh Hư Động để nghỉ ngơi những năm tháng cuối đời. Lê Thánh Tông (1460 – 1497), vị minh quân và là Tao Đàn nguyên súy (thời Lê sơ), Thánh thơ Cao Bá Quát(1808-1855) (thời Nguyễn)... đều đã đến đây vãn cảnh, làm thơ, để lại cho đời những tác phẩm giá trị.
Tháng 2/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về thăm danh thắng Côn Sơn. Tại đây, Người đã đọc văn bia trước cửa chùa Côn Sơn bằng sự trân trọng, thiêng liêng và niềm giao cảm đặc biệt với cố nhân.Côn Sơn gắn liền với tên tuổi của nhiều danh nhân đất Việt. Tuy nhiên, khi nói đến Côn Sơn là nói đến Anh hùng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi - người đã gắn bó cả cuộc đời, sự nghiệp của mình ở đây. Thật vậy, ở Côn Sơn, mỗi sự vật, di tích đều lấp lánh ánh sáng của Nguyễn Trãi – Sao Khuê.
Khu di tích này hiện còn lưu giữ nhiều di tích văn hóa, lịch sử có giá trị, tiêu biểu như:
Chùa Côn Sơn (hay còn gọi là chùa Kỳ Lân, chùa Hun), tọa lạc ở chân núi Kỳ Lân (núi Hun). Chùa có tên chữ là Thiên Tư Phúc tự. Tương truyền, năm Hưng Long thứ 12 (1304), nhà sư Pháp Loa đã cho xây dựng một ngôi chùa nhỏ ở chân núi Kỳ Lân, giao Huyền Quang trụ trì. Đến năm Khai Hựu thứ nhất (1329), chùa được trùng tu, mở rộng thành Côn Sơn Thiên Tư Phúc tự, một trong các trung tâm của thiền phái Trúc Lâm. Đến thời Lê, chùa tiếp tục được trùng tu, mở rộng lớn với 83 gian tòa ngang dãy dọc, gạch đỏ, ngói để men màu và 385 pho tượng. Tuy nhiên, trải qua biến thiên của lịch sử, chùa đã bị thu nhỏ lại với kiến trúc hiện nay hình chữ công (工), gồm 3 toà: Tiền đường, Thiêu hương và Thượng điện. Thượng điện thờ Phật, trong đó có những bức tượng Phật cao 3m, mang đậm phong cách nghệ thuật thời Lê.
Cùng với kiến trúc đặc sắc, chùa còn lưu giữ cây Đại 600 tuổi, 4 nhà bia, đáng chú ý là bia "Thanh Hư Động" dựng từ thời Long Khánh (1373 - 1377) còn lưu giữ bút tích của Vua Trần Duệ Tông và bia hình lục lăng "Côn Sơn thiện tư bi phúc tự" đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc khi Người về thăm di tích vào ngày 15/2/1965.
Chùa đã được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích quốc gia đợt I năm 1962 và di tích đặc biệt quan trọng vào năm 1994.
Nhà Tổ nằm ngay phía sau chùa Côn Sơn, thờ tượng 3 vị Trúc Lâm Tam Tổ (Vua Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang), tượng Quan tư đồ Trần Nguyên Ðán và vợ, tượng Nguyễn Trãi và vợ thứ của ông (bà Nguyễn Thị Lộ).
Đền Nguyễn Trãi có tên chữ là “Ức Trai linh từ”, tọa lạc trên diện tích 10.000m² dưới chân núi Ngũ Nhạc nằm trong khu vực Thanh Hư Động và gần nơi ngày xưa từng có đền thờ bà Trần Thị Thái – thân mẫu của Nguyễn Trãi. Đền tựa lưng vào Tổ Sơn, hai bên dựa vào hai dãy núi Ngũ Nhạc và Kỳ Lân tạo thế tả thanh long, hữu bạch hổ. Minh đường của đền nhìn ra hồ Côn Sơn, nơi có núi Phượng Hoàng, Chúc Thôn chầu vào. Dòng suối Côn Sơn chảy từ Bắc xuống Nam, uốn lượn từ phải qua trái ôm lấy đền.
Đền gồm có 15 hạng mục: đền Chính, nhà Tả vu, nhà Hữu vu, Nghi môn nội, Nghi môn ngoại, cầu Thấu Ngọc, miếu Giải oan, hồ Nhân Nghĩa, nhà bia, am hoá vàng, hệ thống sân vườn... Trong đó, đền Chính được xây dựng trên diện tích khoảng 200m², theo hình chữ công (工), mang phong cách kiến trúc thời hậu Lê, gồm 3 gian: Tiền tế, Trung từ và Hậu cung. Trong Hậu cung đặt tượng thờ Nguyễn Trãi bằng đồng cao 1,4 m, nặng 600 kg và hai tượng song thân phụ mẫu của ông.
Tại đây vẫn còn lưu giữ những bức hoành phi, câu đối với nội dung thể hiện tâm hồn, cốt cách, tài năng, công đức lớn lao của Nguyễn Trãi và tấm lòng thành kính, biết ơn của nhân dân đối với ông.
Đền thờ Trần Nguyên Đán được xây dựng năm 2004, gần thượng nguồn suối Côn Sơn, tại vị trí mà hơn sáu trăm năm trước ông đã dựng nhà để nghỉ ngơi, an dưỡng tuổi già.
Năm 1385, Trần Nguyên Đán đã đưa vợ và cháu ngoại là Nguyễn Trãi mới 5 tuổi về sống tại Côn Sơn. Tại đây, ông đã cùng vợ trồng rừng thông, bãi giễ và xây dựng quần thể kiến trúc trong núi - động Thanh Hư. Đây là công trình quy mô hoành tráng, bao gồm nhiều hạng mục hài hoà với thiên nhiên, đã trở thành địa danh nổi tiếng, đi vào thi ca, sử sách.
Giếng Ngọc nằm ở sườn núi Kỳ Lân, dưới chân Ðăng Minh Bảo Tháp. Tương truyền, vào một đêm rằm tháng bảy, thiền sư Huyền Quang mơ thấy một viên ngọc sáng lấp lánh nằm trên sườn núi Kỳ Lân. Trời sáng, thiền sư cùng các tăng ni lên sườn núi xem xét, khi phát quang bụi sim, mua, thấy một giếng nước trong vắt, uống thử thấy nước ngọt, mát, người khoan khoái. Khi về chùa, thiền sư đã làm lễ tạ thần linh vì ban cho chùa nguồn nước quý và xin được khơi sâu, kè bờ. Từ đó giếng được gọi là giếng Ngọc và các sư trong chùa thường lấy nước giếng để cúng lễ. Đã có thời gian giếng bị cỏ cây che lấp. Năm 1995, giếng đã được đầu tư khơi lại, kè đá, xây bờ, lát sân để tạo cảnh quan chung cho khu du lịch và cũng là để du khách khi về thăm Côn Sơn có dịp uống ngụm nước giếng thiêng.
Khu mộ tháp nằm gần giếng Ngọc. Tại đây, Vua Trần Minh Tông đã cho dựng Đăng Minh bảo tháp bằng đá xanh, cao 3 tầng, bên trong đặt xá lợi và tượng thờ Huyền Quang sau khi thiền sư mất.
Bàn Cờ Tiên: Từ giếng Ngọc, theo con đường lát đá dài hơn 600 bậc với hai bên là rừng thông xanh cao ngất trời sẽ đến đỉnh núi Kỳ Lân (cao 200m). Đỉnh núi là một khu đất bằng phẳng, trên có một phiến đá khá rộng, người xưa gọi là Bàn Cờ Tiên. Tại đây hiện còn lưu giữ di tích nền hình chữ công của Am Bạch Vân – một kiến trúc được xây dựng từ thời Trần (thế kỷ 14), thời Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang tu hành ở chùa Côn Sơn với tám mái chảy, có lan can xung quanh, để các vị cao tăng tu luyện, giảng kinh, thuyết pháp cho môn đệ.
Năm 1992, Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã xây dựng "Vọng giang đình" (nhà bia) hai tầng cổ các tám mái để tưởng niệm Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi ngay bên cạnh di tích nền Am Bạch Vân. Tại đây có bia đá khắc ghi về thân thế, sự nghiệp của Nguyễn Trãi và lịch sử di tích Côn Sơn.
Từ đỉnh núi Kỳ Lân, du khách có thể nhìn bao quát cả một vùng núi, rừng rộng lớn, nhìn về đông bắc 10km là núi Bái Vọng với quả núi hình hoa sen, cỏ cây tươi tốt, đây chính là nơi để thi hài của Nguyễn Phi Khanh, thân phụ của Nguyễn Trãi.
Thạch Bàn là hai tảng đá sói kết, mặt tương đối bằng phẳng,nằm cách nhau gần 100m, bên cạnh suối Côn Sơn.
Thạch Bàn lớn thường gọi là “hòn đá 5 gian”, có kích thước 28,5 x 6m. Tương truyền, đây là nơi Nguyễn Trãi thường ngồi ngắm cảnh, làm thơ và suy nghĩ vận nước. Thạch Bàn nhỏ hơn là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh dừng chân nghỉ ngơi, ngắm cảnh khi Người đến thăm Côn Sơn.
Hàng năm, tại Côn Sơn diễn ra hai lễ hội chính gắn với đền Kiếp Bạc (xã Hưng Đạo, thị xã Chí Linh). Lễ hội mùa xuân Côn Sơn – Kiếp Bạc được tổ chức từ 14 - 17 tháng Giêng để tưởng niệm ngày viên tịch của Đệ tam Thánh tổ Huyền Quang tôn giả, với các nghi thức tế lễ và diễn xướng dân gian như: Lễ Mông sơn thí thực, lễ tế trời đất trên Ngũ Nhạc linh từ, lễ rước nước, đua thuyền trên Lục Ðầu Giang, chọi gà, cờ người, đấu vật… Lễ hội mùa thu Côn Sơn – Kiếp Bạc được tổ chức từ ngày 15 – 20/8 âm lịch để tưởng nhớ ngày mất của Đức Thánh Trần và Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi, với các nghi lễ như: lễ rước cỗ tiến Thánh, lễ duyệt quân trên sông Lục Đầu, lễ cầu an và hội hoa đăng trên sông Lục Đầu, lễ ban ấn của Đức Thánh Trần và nhiều hoạt động dân gian như: đấu vật, đua thuyền, bắt vịt…
Trong những năm gần đây, Côn Sơn đã được tôn tạo và bổ sung nhiều công trình, đường vào Côn Sơn từ nhiều ngả được nâng cấp và tráng nhựa. Du khách đến đây dù vào thời điểm nào cũng bắt gặp không khí mát mẻ trong lành, một không gian thơ mộng và đượm tính nhân văn.
bởi Lê Thị Vân Anh 26/03/2019Like (0) Báo cáo sai phạm -
Côn Sơn là nơi có phong cảnh thiên nhiên thơ mộng, hữu tình với núi, rừng, suối, hồ, đan xen hòa hợp. Phía bắc Côn Sơn giáp núi Ngũ Nhạc, cao 238m, trên đỉnh có miếu "Ngũ Nhạc linh từ" thờ thần núi. Ngay bên cạnh là núi Kỳ Lân (còn gọi là núi Côn Sơn) cao 200m, trên đỉnh có Bàn Cờ Tiên và di tích nền của Am Bạch Vân. Rừng ở Côn Sơn chủ yếu là thông, bạt ngàn, xanh tốt. Suối Côn Sơn chảy rì rầm từ Bắc xuống Nam, giống như tiếng đàn cầm vang vọng giữa núi rừng mênh mông… Bắc qua suối là cây cầu Thấu Ngọc - một công trình tuyệt mỹ đã đi vào thơ ca, sử sách. Mỗi buổi sáng, sương mờ trắng xóa bao phủ đỉnh núi, trưa đến, Côn Sơn lại khoác lên mình tấm áo tươi xanh, ngan ngát hương bay.
Cảnh đẹp Côn Sơn từ trước tới nay đã quyến rũ bao tao nhân, mặc khách. Chả thế mà, sáu thế kỷ trước, Côn Sơn đã như cảnh thần tiên qua ngòi bút của Nguyễn Phi Khanh (thân sinh ra Nguyễn Trãi) tả trong "Thanh Hư Động ký: "Khói đầu non, ráng ngoài đảo, gấm vóc phô bầy/ Hoa dọc suối, cỏ ven rừng biếc hồng phấp phới/ Bóng mát để nghỉ, chỗ vắng để ngồi, mùi thơm để ngửi, sắc đẹp để xem...". Với Nguyễn Trãi, Côn Sơn thật hữu tình, được thể hiện qua tác phẩm Côn Sơn Ca: “Côn Sơn suối chảy rì rầm/ Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai…”.
Không chỉ được thiên nhiên ưu ái ban tặng cảnh đẹp, Côn Sơn còn là miền đất địa linh nhân kiệt.
Hơn một ngàn năm trước, Định Quốc Công Nguyễn Bặc, thủy tổ của dòng họ Nguyễn Trãi đã lập căn cứ ở Côn Sơn để đánh sứ quân Phạm Phòng Át, một trong 12 loạn sứ quân vào cuối thời nhà Ngô (thế kỷ thứ 10), giúp Đinh Tiên Hoàng thống nhất đất nước. Thế kỷ 13, vua Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang, ba vị lập ra thiền phái Trúc Lâm đã về Côn Sơn thuyết pháp, xây dựng chùa Côn Sơn thành chốn Tổ đình, một thiền viện lớn của triều Trần và giao cho Huyền Quang trụ trì. Trần Nguyên Đán - quan Đại tư đồ phụ chính, nhà thơ, nhà lịch pháp lớn thời Hậu Trần đã về Côn Sơn dựng Thanh Hư Động để nghỉ ngơi những năm tháng cuối đời. Lê Thánh Tông (1460 – 1497), vị minh quân và là Tao Đàn nguyên súy (thời Lê sơ), Thánh thơ Cao Bá Quát(1808-1855) (thời Nguyễn)... đều đã đến đây vãn cảnh, làm thơ, để lại cho đời những tác phẩm giá trị.
Tháng 2/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về thăm danh thắng Côn Sơn. Tại đây, Người đã đọc văn bia trước cửa chùa Côn Sơn bằng sự trân trọng, thiêng liêng và niềm giao cảm đặc biệt với cố nhân.Côn Sơn gắn liền với tên tuổi của nhiều danh nhân đất Việt. Tuy nhiên, khi nói đến Côn Sơn là nói đến Anh hùng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi - người đã gắn bó cả cuộc đời, sự nghiệp của mình ở đây. Thật vậy, ở Côn Sơn, mỗi sự vật, di tích đều lấp lánh ánh sáng của Nguyễn Trãi – Sao Khuê.
Khu di tích này hiện còn lưu giữ nhiều di tích văn hóa, lịch sử có giá trị, tiêu biểu như:
Chùa Côn Sơn (hay còn gọi là chùa Kỳ Lân, chùa Hun), tọa lạc ở chân núi Kỳ Lân (núi Hun). Chùa có tên chữ là Thiên Tư Phúc tự. Tương truyền, năm Hưng Long thứ 12 (1304), nhà sư Pháp Loa đã cho xây dựng một ngôi chùa nhỏ ở chân núi Kỳ Lân, giao Huyền Quang trụ trì. Đến năm Khai Hựu thứ nhất (1329), chùa được trùng tu, mở rộng thành Côn Sơn Thiên Tư Phúc tự, một trong các trung tâm của thiền phái Trúc Lâm. Đến thời Lê, chùa tiếp tục được trùng tu, mở rộng lớn với 83 gian tòa ngang dãy dọc, gạch đỏ, ngói để men màu và 385 pho tượng. Tuy nhiên, trải qua biến thiên của lịch sử, chùa đã bị thu nhỏ lại với kiến trúc hiện nay hình chữ công (工), gồm 3 toà: Tiền đường, Thiêu hương và Thượng điện. Thượng điện thờ Phật, trong đó có những bức tượng Phật cao 3m, mang đậm phong cách nghệ thuật thời Lê.
Cùng với kiến trúc đặc sắc, chùa còn lưu giữ cây Đại 600 tuổi, 4 nhà bia, đáng chú ý là bia "Thanh Hư Động" dựng từ thời Long Khánh (1373 - 1377) còn lưu giữ bút tích của Vua Trần Duệ Tông và bia hình lục lăng "Côn Sơn thiện tư bi phúc tự" đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc khi Người về thăm di tích vào ngày 15/2/1965.
Chùa đã được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích quốc gia đợt I năm 1962 và di tích đặc biệt quan trọng vào năm 1994.
Nhà Tổ nằm ngay phía sau chùa Côn Sơn, thờ tượng 3 vị Trúc Lâm Tam Tổ (Vua Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang), tượng Quan tư đồ Trần Nguyên Ðán và vợ, tượng Nguyễn Trãi và vợ thứ của ông (bà Nguyễn Thị Lộ).
Đền Nguyễn Trãi có tên chữ là “Ức Trai linh từ”, tọa lạc trên diện tích 10.000m² dưới chân núi Ngũ Nhạc nằm trong khu vực Thanh Hư Động và gần nơi ngày xưa từng có đền thờ bà Trần Thị Thái – thân mẫu của Nguyễn Trãi. Đền tựa lưng vào Tổ Sơn, hai bên dựa vào hai dãy núi Ngũ Nhạc và Kỳ Lân tạo thế tả thanh long, hữu bạch hổ. Minh đường của đền nhìn ra hồ Côn Sơn, nơi có núi Phượng Hoàng, Chúc Thôn chầu vào. Dòng suối Côn Sơn chảy từ Bắc xuống Nam, uốn lượn từ phải qua trái ôm lấy đền.
Đền gồm có 15 hạng mục: đền Chính, nhà Tả vu, nhà Hữu vu, Nghi môn nội, Nghi môn ngoại, cầu Thấu Ngọc, miếu Giải oan, hồ Nhân Nghĩa, nhà bia, am hoá vàng, hệ thống sân vườn... Trong đó, đền Chính được xây dựng trên diện tích khoảng 200m², theo hình chữ công (工), mang phong cách kiến trúc thời hậu Lê, gồm 3 gian: Tiền tế, Trung từ và Hậu cung. Trong Hậu cung đặt tượng thờ Nguyễn Trãi bằng đồng cao 1,4 m, nặng 600 kg và hai tượng song thân phụ mẫu của ông.
Tại đây vẫn còn lưu giữ những bức hoành phi, câu đối với nội dung thể hiện tâm hồn, cốt cách, tài năng, công đức lớn lao của Nguyễn Trãi và tấm lòng thành kính, biết ơn của nhân dân đối với ông.
Đền thờ Trần Nguyên Đán được xây dựng năm 2004, gần thượng nguồn suối Côn Sơn, tại vị trí mà hơn sáu trăm năm trước ông đã dựng nhà để nghỉ ngơi, an dưỡng tuổi già.
Năm 1385, Trần Nguyên Đán đã đưa vợ và cháu ngoại là Nguyễn Trãi mới 5 tuổi về sống tại Côn Sơn. Tại đây, ông đã cùng vợ trồng rừng thông, bãi giễ và xây dựng quần thể kiến trúc trong núi - động Thanh Hư. Đây là công trình quy mô hoành tráng, bao gồm nhiều hạng mục hài hoà với thiên nhiên, đã trở thành địa danh nổi tiếng, đi vào thi ca, sử sách.
Giếng Ngọc nằm ở sườn núi Kỳ Lân, dưới chân Ðăng Minh Bảo Tháp. Tương truyền, vào một đêm rằm tháng bảy, thiền sư Huyền Quang mơ thấy một viên ngọc sáng lấp lánh nằm trên sườn núi Kỳ Lân. Trời sáng, thiền sư cùng các tăng ni lên sườn núi xem xét, khi phát quang bụi sim, mua, thấy một giếng nước trong vắt, uống thử thấy nước ngọt, mát, người khoan khoái. Khi về chùa, thiền sư đã làm lễ tạ thần linh vì ban cho chùa nguồn nước quý và xin được khơi sâu, kè bờ. Từ đó giếng được gọi là giếng Ngọc và các sư trong chùa thường lấy nước giếng để cúng lễ. Đã có thời gian giếng bị cỏ cây che lấp. Năm 1995, giếng đã được đầu tư khơi lại, kè đá, xây bờ, lát sân để tạo cảnh quan chung cho khu du lịch và cũng là để du khách khi về thăm Côn Sơn có dịp uống ngụm nước giếng thiêng.
Khu mộ tháp nằm gần giếng Ngọc. Tại đây, Vua Trần Minh Tông đã cho dựng Đăng Minh bảo tháp bằng đá xanh, cao 3 tầng, bên trong đặt xá lợi và tượng thờ Huyền Quang sau khi thiền sư mất.
Bàn Cờ Tiên: Từ giếng Ngọc, theo con đường lát đá dài hơn 600 bậc với hai bên là rừng thông xanh cao ngất trời sẽ đến đỉnh núi Kỳ Lân (cao 200m). Đỉnh núi là một khu đất bằng phẳng, trên có một phiến đá khá rộng, người xưa gọi là Bàn Cờ Tiên. Tại đây hiện còn lưu giữ di tích nền hình chữ công của Am Bạch Vân – một kiến trúc được xây dựng từ thời Trần (thế kỷ 14), thời Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang tu hành ở chùa Côn Sơn với tám mái chảy, có lan can xung quanh, để các vị cao tăng tu luyện, giảng kinh, thuyết pháp cho môn đệ.
Năm 1992, Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã xây dựng "Vọng giang đình" (nhà bia) hai tầng cổ các tám mái để tưởng niệm Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi ngay bên cạnh di tích nền Am Bạch Vân. Tại đây có bia đá khắc ghi về thân thế, sự nghiệp của Nguyễn Trãi và lịch sử di tích Côn Sơn.
Từ đỉnh núi Kỳ Lân, du khách có thể nhìn bao quát cả một vùng núi, rừng rộng lớn, nhìn về đông bắc 10km là núi Bái Vọng với quả núi hình hoa sen, cỏ cây tươi tốt, đây chính là nơi để thi hài của Nguyễn Phi Khanh, thân phụ của Nguyễn Trãi.
Thạch Bàn là hai tảng đá sói kết, mặt tương đối bằng phẳng,nằm cách nhau gần 100m, bên cạnh suối Côn Sơn.
Thạch Bàn lớn thường gọi là “hòn đá 5 gian”, có kích thước 28,5 x 6m. Tương truyền, đây là nơi Nguyễn Trãi thường ngồi ngắm cảnh, làm thơ và suy nghĩ vận nước. Thạch Bàn nhỏ hơn là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh dừng chân nghỉ ngơi, ngắm cảnh khi Người đến thăm Côn Sơn.
Hàng năm, tại Côn Sơn diễn ra hai lễ hội chính gắn với đền Kiếp Bạc (xã Hưng Đạo, thị xã Chí Linh). Lễ hội mùa xuân Côn Sơn – Kiếp Bạc được tổ chức từ 14 - 17 tháng Giêng để tưởng niệm ngày viên tịch của Đệ tam Thánh tổ Huyền Quang tôn giả, với các nghi thức tế lễ và diễn xướng dân gian như: Lễ Mông sơn thí thực, lễ tế trời đất trên Ngũ Nhạc linh từ, lễ rước nước, đua thuyền trên Lục Ðầu Giang, chọi gà, cờ người, đấu vật… Lễ hội mùa thu Côn Sơn – Kiếp Bạc được tổ chức từ ngày 15 – 20/8 âm lịch để tưởng nhớ ngày mất của Đức Thánh Trần và Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi, với các nghi lễ như: lễ rước cỗ tiến Thánh, lễ duyệt quân trên sông Lục Đầu, lễ cầu an và hội hoa đăng trên sông Lục Đầu, lễ ban ấn của Đức Thánh Trần và nhiều hoạt động dân gian như: đấu vật, đua thuyền, bắt vịt…
Trong những năm gần đây, Côn Sơn đã được tôn tạo và bổ sung nhiều công trình, đường vào Côn Sơn từ nhiều ngả được nâng cấp và tráng nhựa. Du khách đến đây dù vào thời điểm nào cũng bắt gặp không khí mát mẻ trong lành, một không gian thơ mộng và đượm tính nhân văn.
bởi Lê Trần Khả Hân 26/03/2019Like (0) Báo cáo sai phạm -
Được xây dựng vào thế kỷ XIII, nằm trên ngọn núi Kỳ Lân, chùa Côn Sơn là danh lam cổ tự được nhiều tao nhân mặc khách biết đến. Vẻ đẹp Côn Sơn được ví như cảnh tiên với tiếng suối róc rách, hoa trải như gấm, mang sắc hương quyến rũ lòng người. Từ Côn Sơn đi tiếp một quãng ngắn, bạn lại gặp đền Kiếp Bạc nằm trong thung lũng rồng, nơi gắn liền với tên tuổi người anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo.
Côn Sơn tức núi Kỳ Lân hay còn gọi là núi Hun, thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Phía bắc giáp núi Ngũ Nhạc, phía tây tiếp nối núi U Bò với một vùng thung lũng xanh biếc cùng những mái nhà tranh ẩn hiện sau lũy tre làng. Phía đông là chùa và hồ Côn Sơn. Nhìn về phía đông bắc, có một quả núi hình hoa sen quanh năm tươi tốt mang tên Bài Vọng – nơi yên nghỉ của cụ thân sinh Nguyễn Trãi (Ông Nguyễn Phi Khanh). Phía nam là xóm núi Tiên Sơn và bãi giẽ (thanh hao), tương truyền do bà Trần Nguyên Đán trồng. Chính vì tên gọi của ngọn núi này mà Chùa Côn Sơn còn được gọi là chùa Hun.
Chùa Côn Sơn xây dựng vào thế kỷ XIII, với 83 gian nhà, cùng 385 pho tượng sinh động và tinh xảo. Bên hông chùa là nhà Tổ, thờ quan Tư đồ phụ chính là Trần Nguyên Đán cùng ba vị tổ khác là: Trần Nhân Tông – người lập ra thiền phái Trúc Lâm Việt Nam, Pháp Loa và sư Huyền Quang – tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm.
Vượt qua hơn 900 bậc đá, quanh co bên những ngọn đồi thông, trước mặt du khách là đỉnh Côn Sơn hiện ra trong hư ảo. Tại đây, du khách sẽ gặp Bạch Vân Am, nơi được người xưa kể rằng là chốn dành cho các vị tiên đánh cờ khi hạ giới. Từ đỉnh Côn Sơn du khách sẽ thu vào tầm mắt toàn cảnh hùng vĩ của núi rừng trập trùng, thoát ẩn thoát hiện trong mây, xa xa là dòng Lục Đầu giang mênh mông sông nước. Ngước mặt là một khoảng trời xanh ngắt, lơ lững treo những chòm mây trắng tựa bông. Chính vì vẻ đẹp ấy mà vào những lúc cuối đời, thi hào Nguyễn Trãi đã chọn chốn này làm niềm vui ẩn dật. Và cũng chính Nguyễn Trãi là người đã cho du khách sự cảm nhận đầu tiên và đầy đủ nhất về vẻ đẹp Côn Sơn, dù chỉ vài dòng ngắn ngủi nhưng đã lột tả hết vẻ đẹp thanh tĩnh an bình của nơi được xem là chốn bồng lai tiên cảnh.
“Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
Côn sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như như ngồi chiếu êm…”
Từ dãy Côn Sơn đi thêm 5km về hướng đông bắc, xuyên qua những thung lũng xanh tươi và những làng mạc yên bình, du khách sẽ đến với thung lũng Rồng, nơi có đền Kiếp Bạc - thờ Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Ấy vậy mới biết: “địa linh sinh nhân kiệt” quả thực không sai. Nơi đây nổi danh không chỉ vì vẻ đẹp của vùng thung lũng, mà vì đã từng là nơi đặt đại bản doanh của đại quân nước ta, ba lần đập tan mưu đồ xâm lược của đạo quân Nguyên Mông - từng chinh đông, phạt tây, nhưng phải lui bước trước hùng khí và con người của non sông Đại Việt.
Đền Kiếp Bạc là một quần thể gồm nhiều di tích như: Đền thờ Trần Hưng Đạo, Dược Sơn, dòng Lục Đầu giang, bến Bình Than, cồn Kiếm. Trong đền Kiếp Bạc còn có 5 pho tượng lớn của Trần Hưng Đạo và phu nhân, Phạm Ngũ Lão và hai con gái. Xung quanh đền Kiếp Bạc là bãi bồi Thanh kiếm thần của Trần Hưng Đạo, quán hàng cơm của bà chủ quán có công trong việc chặt đầu viên tướng đầy ma thuật của quân Nguyên Mông – Phạm Nhan, Giếng mắt Rồng, đường kéo thuyền trên dãy núi Phượng Hoàng, hố Máng Nước (hay Hố Chân Bia), và đặc biệt là đôi xương chân của chú Dã Tượng đã cùng Trần Hưng Đạo xông pha chiến trận và lập nhiều chiến công lớn…
Như một sự trùng hợp, hội Côn Sơn - Kiếp Bạc bắt đầu vào ngày 16-8 âm lịch, ngày mất của Nguyễn Trãi, và kết thúc hội vào ngày mất của Hương Đạo đại vương (20 - 8 âm lịch). Chính vì vậy, mùa hội đã thu hút hàng vạn người tham gia. Cùng với vẻ đẹp thơ mộng của phong cảnh núi rừng, sự thiêng liêng của vùng đất “địa linh, nhân kiệt” và những lễ hội rộn ràng, mang ý nghĩa lịch sử, giáo dục sâu sắc vì vậy, hội Côn Sơn - Kiếp Bạc đã trở thành tâm điểm cho những dòng người từ khắp mọi nơi tìm về. Và rồi, tên gọi Côn Sơn – Kiếp Bạc đã gắn với nhau như hình với bóng, như sự giao hòa giữa vẻ đẹp núi rừng và hồn thiêng sông núi đang hội về, để du khách thêm gắn bó khi tìm về miền đất mến yêu này.
bởi Nguyễn Phương Ngọc 27/03/2019Like (1) Báo cáo sai phạm
Video HD đặt và trả lời câu hỏi - Tích lũy điểm thưởng
Nếu bạn hỏi, bạn chỉ thu về một câu trả lời.
Nhưng khi bạn suy nghĩ trả lời, bạn sẽ thu về gấp bội!
Lưu ý: Các trường hợp cố tình spam câu trả lời hoặc bị báo xấu trên 5 lần sẽ bị khóa tài khoản
Các câu hỏi mới
-
phương thức biểu đạt của bài “Tiếng Hát Tháng Giêng ( Y PHƯƠNG )
Giúp Mình với ạ!
23/11/2022 | 0 Trả lời
-
Về một mua xuân
25/11/2022 | 0 Trả lời
-
Mọc giữa đong sông xang Một bông hoa tím biếc Ơi,con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời Từng giọi long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng
25/11/2022 | 1 Trả lời
-
viết đoạn văn từ 5-7 câu nêu cảm nhận của em về biện pháp tu từ có vị chí nổi bật nhất trong bài thơ "mùa xuân nho nhỏ"
01/12/2022 | 0 Trả lời
-
Viết đoạn văn BIỂU CẢM về lợi ích của cây CÀ PHÊ.
04/12/2022 | 0 Trả lời
-
Em hãy viết bài văn kể lạu một trận thi đấu bóng rổ mà em ấn tượng nhất khi bắt đầu vào trường thcs(lớp 7)
07/12/2022 | 0 Trả lời
-
Em sẽ hành động như thế nào để "những tục lệ tốt đẹp ấy" và "những thức quý của đất mình" luôn có một vị trí quan trọng trong tâm hồn của người Việt? (Trả lời từ 3-5 câu)
Em đang cần gắp ạ!
11/12/2022 | 0 Trả lời
-
Đọc và trả lời câu hỏi:
Câu 1: Cảnh vật được miêu tả qua màu sắc nào trong bài thơ "Chiều sông thương".
18/12/2022 | 0 Trả lời
-
Viết đoạn văn khoảng 150 chữ giải thích câu ca dao :
"Trà Phú Hội, nước Mạch Bà
Sầu riêng An Lợi, chuối già Long Tân
Cá bụi sò huyết Pước An
Gạo thơm Phước Khánh, tôm càng Tam An"
19/12/2022 | 0 Trả lời
-
Giải giúp mình bài này nhé! Nêu những điểm cần chú ý về văn bản thông tin. TT
23/12/2022 | 0 Trả lời
-
sos . mọi người nhanh giúp mình với
28/12/2022 | 0 Trả lời
-
đề tài của lừa và ngựa
Giúp Em Vs
29/12/2022 | 0 Trả lời
-
'Một ngày nọ, con lừa của một ông chủ trang trại sẩy chân rơi xuống cái giếng. Con vật kêu la hàng giờ liền. Người chủ trang trại cố nghĩ xem nên làm gì. Cuối cùng, ông quyết định: con lừa đã già, dù sao cái giếng cũng cần được lấp lại và không ích lợi gì trong việc cứu con lừa lên cả.
Ông nhờ vài người hàng xóm sang giúp mình. Họ xúc đất đổ vào giếng.Ngay từ đầu lừa đã hiểu chuyện gì đang xảy ra và nó kêu la thảm thiết.Nhưng sau đó lừa trở nên im lặng.Sau một vài xẻng đất, ông chủ trang trại nhìn xuống và vô cùng sửng sốt.Mỗi khi bị một xẻng đất đổ lên lưng, lừa lắc mình cho đất rơi xuống và bước chân lên trên.Cứ như vậy, đất đổ xuống, lừa lại bước lên cao hơn.Chỉ một lúc sau, mọi người nhìn thấy chú lừa xuất hiện trên miệng giếng và lóc cóc chạy ra ngoài'.
Từ nội dung của phần đọc hiểu , em hãy viết đoạn văn ngắn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ của mình về thông điệp được rút ra từ câu chuyên trên.
01/02/2023 | 0 Trả lời
-
Giải giúp mình bài này nhé! phần trên thui Câu 1 : Tìm những từ ngữ thể hiện thái độ của con mối và con kiến. Qua những từ ngữ ấy , tác giả muốn thể hiện điều gì? Câu 2 : Chỉ ra sự khác nhau trong hình thức kể chuyện của truyện Con mối và Con kiến với các chuyện Đèo cày giữa đường và Ếch ngồi đáy giếng. Câu 3 : Thủ pháp nào đc sd để lm nổi bật đặc điểm của hai con mối và kiến? Câu 4 : Hình ảnh con mối và con kiến để chỉ kiểu ng nào trong xã hội?
05/02/2023 | 0 Trả lời
-
bằng một đoạn văn khoảng 10 câu nêu cảm nhận của em về nhân vật ngụ ngôn mà em yêu thích
08/02/2023 | 0 Trả lời
-
Giải giúp mình bài này nhé! ai giỏi văn thì giúp mình nhé đừng lên gg ạ
19/02/2023 | 1 Trả lời
-
chỉ ra và nêu cách hiểu của em về các từ ngữ được dùng phép nói quá trong các câu sau :
1. " Nhớ đêm dài đi đất trời bốc lửa
Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng "
2. " Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây súng gửi trời "
3. " Gươm mài đá, đá cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn "
4. " Các bô lão là những kẻ quê mùa, chất phác, chưa bao giờ được bước chân vào nơi lầu son gác tía, chua bao giờ được bàn việc nước, thế mà nghe quan gia hỏi, họ đều nắm tay, gân mặt, khảng khái tâu lên : Xin đánh, trăm miệng một lời, làm rung chuyển cả một toàn điện Diên Hồng "
Liên quan đến biện pháp tu từ nói quá ạ, mong mọi người giúp mk ạ!
21/02/2023 | 0 Trả lời
-
lập dàn ý ghi lại cảm xúc bài thơ mẹ và quả nguyen khoa diem lớp 7 dàn ý chi tiết nha
văn học lớp 7
24/02/2023 | 0 Trả lời
-
22/03/2023 | 2 Trả lời
-
Viết bài văn nghị luận về một vấn đề trong đời sống( trình bày ý kiến phản đối )về các vấn đề của học sinh
26/03/2023 | 0 Trả lời
-
Tìm hiểu về Vẻ đẹp của cây tre và con người Việt Nam
30/03/2023 | 0 Trả lời
-
có gì mới ở phương tây
có ngày có đêm
có máu và nước mắt
có sói lang và những anh hùng
31/03/2023 | 3 Trả lời
-
Hãy nêu tất cả các văn bản thông tin từ lớp 6 đến lớp 7 sách Ngữ văn Kết nối tri thức
09/04/2023 | 0 Trả lời
-
Đọc phần Giới thiệu bài học trong SGK tr76 tập 2 KNTT và trả lời câu hỏi: Phát biểu suy luận của em về mối liên hệ giữa chủ đề bài học và loại văn bản chính cần đọc.
09/04/2023 | 0 Trả lời
-
Bài học sâu sắc nhất mà em rút ra từ phần văn bản Những câu chuyện của người thầy
23/04/2023 | 0 Trả lời