Một trong những tiêu chí HOC247 hướng đến là giúp các em có nhiều kiến thức bổ ích. Nhằm hỗ trợ học sinh lớp 12 ôn tập cho kì thi THPT Quốc gia sắp tới, mời các em tham khảo tài liệu Bộ 5 đề thi thử THPT QG môn Ngữ văn năm 2021-2022 có đáp án trường THPT Phước Kiển dưới đây. Chúc các em học tập vui vẻ!
TRƯỜNG THPT PHƯỚC KIỂN |
ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA MÔN NGỮ VĂN NĂM HỌC 2021-2022 Thời gian làm bài: 120 phút |
ĐỀ THI SỐ 1
I. ĐỌC – HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
Có lẽ bạn muốn trở thành mặt trời nhưng bạn chỉ là một ngôi sao. Có lẽ bạn muốn thành cây lớn nhưng bạn lại là một ngọn cỏ. Có lẽ bạn muốn trở thành một con sông lớn nhưng bạn lại chỉ là một con suối nhỏ… Thế là bạn tự ti với những gì mình có. Thực ra bạn chẳng giống như những người khác, bạn cũng là một phong cảnh đẹp, cũng có không khí, cũng có bốn mùa xuân hạ thu đông, cũng là một phần đặc sắc của thế giới này. Bình thường đâu phải là đáng xấu hổ. Chỉ cần có vai trong cuộc sống là đã có vị trí thuộc về mình thực sự và bạn sáng lấp lánh từ vị trí ấy của mình....
Mỗi chúng ta đều là một sự mới mẻ, độc nhất vô nhị. Nếu chúng ta muốn độc lập tự do, muốn phát triển đặc điểm của mình thì chỉ có đưa vào chính bản thân mình. Nhưng điều đó không có nghĩa chúng ta phải xây dựng những cái mới lạ đặc biệt, cũng không có nghĩa là chúng ta ăn mặc quái dị, có những hành vi lạ lùng. Thực ra chỉ cần chúng ta tuân thủ những quy định của tập thể với điều kiện là gìn giữ cái tôi của mình, không tát nước theo mưa, không tranh thủ giấu đổ bìm leo thì bạn sẽ vẫn chính là bản thân mình...
Việc gìn giữ bản sắc riêng cũng giống như lịch sử lâu đời của loài người, Angelo Patrick người đã viết mười ba cuốn sách và nhiều bài báo liên quan đến việc dạy dỗ trẻ con, nói "Điều tồi tệ nhất của con người chính là không thể trở thành chính mình và không giữ được cái tôi trong thể xác và tinh thần của mình"...
Mọi nghệ thuật đều là cách thể hiện cái tôi, vậy thì chúng ta phải hát về mình, vẽ về mình, làm nên bản thân mình. Chỉ khi nào chúng ta chăm chút cho mảnh đất nhỏ bé là cuộc sống của bản thân thì mới có thể thể hiện tốt vai trò của mình trong cuộc đời.
(Theo Giáo dục thành công kiểu Harvard, Thủy Trung Ngư - Vương Nghệ Lộ - Đặng Chi)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích. (0,5 điểm)
Câu 2. Trong đoạn trích, tác giả đã dùng những hình ảnh nào để biểu đạt khao khát của con người muốn trở thành những cá nhân nổi bật, có vị trí quan trọng trong đời sống? (0,5 điểm)
Câu 3. Anh/Chị hiểu như thế nào về quan điểm của tác giả trong câu “Thực ra bạn cũng giống như những người khác, bạn cũng là một phong cảnh đẹp, cũng có không khí, cũng có bốn mùa xuân hạ thu đông, cũng là một phần đặc sắc của thế giới này"? (1,0 điểm)
Câu 4. Nhận định “Mọi nghệ thuật đều là cách thể hiện cái tôi, vậy thì chúng ta phải hát về mình, vẽ về mình, làm nên bản thân mình" trong đoạn trích gợi cho anh/chị suy nghĩ gì? (1,0 điểm)
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về sự cần thiết phải trân trọng chính mình.
Câu 2. (5,0 điểm)
Trong phút chốc, ngồi trước mặt chúng tôi lại vẫn là một người đàn bà lúng túng, đầy sợ sệt, nhưng có vẻ thông cảm với chúng tôi hơn. Mụ bắt đầu kể:
– Từ nhỏ tuổi tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa. Hồi bấy giờ nhà tôi còn khá giả, nhà tôi trước ở trong cái phố này. Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới. Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi.
Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
– Giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối..
– Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? – Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.
– Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính – bỗng mụ đỏ mặt – nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
– Vậy sao không lên bờ mà ở–Đẩu hỏi.
– Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!
– Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? – Tôi hỏi.
– Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu.. Giá mà lão uống rượu.. thì tôi còn đỡ khổ.. Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão.. đưa tôi lên bờ mà đánh..
– Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! – Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên.
– Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông.
(Trích Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12, Tập)
Cảm nhận của anh/chị về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên; từ đó nhận xét tư tưởng nhân đạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu thể hiện qua đoạn trích.
-----------------HẾT----------------
ĐÁP ÁN ĐỀ THI SỐ 1
I. ĐỌC – HIỂU
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận
Câu 2. Những hình ảnh biểu đạt khao khát của con người muốn trở thành những cá nhân nổi bật, có vị trí quan trọng trong đời sống: mặt trời, cây lớn, con sông lớn, Trả lời được 3 hình ảnh cho 0,75 điểm; trả lời được 2 hình ảnh cho 0,5 điểm; trả lời được 1 hình ảnh cho 0,25 điểm,
Câu 3. Quan điểm của tác giả:
- Mỗi người đều có vẻ đẹp, sự sống và giá trị riêng.
- Mỗi người đều có vị trí đặc biệt, không thể thay thế trong đời sống. Trả lời đúng 1 ý cho 0,5 điểm, đúng hai ý cho 1,0 điểm Học sinh có cách diễn đạt khác nhưng hiểu đúng ý vẫn cho điểm tối đa
Câu 4.
- Nội dung nhận định: Nghệ thuật thể hiện bản sắc cá tính của người sáng tạo, sống và thể hiện bản thân là cách chúng ta bộc lộ bản sắc, dấu ấn của mình.
- Bày tỏ suy nghĩ của bản thân, có thể theo hướng: Nhận định gợi suy nghĩ về cách sống, về sự cần thiết phải sống là chính mình, phải biết thể hiện và bộc lộ bản thân... Nêu nội dung nhận định cho 0,25 điểm; Bày tỏ suy nghĩ đúng hướng cho 0,5 điển, bày tỏ suy nghĩ chưa thật đúng hướng cho 0,25 điểm.
II. LÀM VĂN
Câu 1.Viết đoạn văn về sự cần thiết phải trân trọng chính mình
a. Bảo đảm yêu cầu về hình thức đoạn văn
Thí sinh có thể trình bảy đoạn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp, móc xích hoặc song hành..
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận
Sự cần thiết phải trân trọng chính mình
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Thí sinh có thể lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn để theo những cách khác nhau nhưng phải làm rõ sự cần thiết phải trân trọng chính mình, Có thể trình bày theo hướng sau:
- Trân trọng chính mình cần thiết để mỗi người biết sống một cách tích cực, biết tin vào giá trị của bản thân, biết chăm sóc và làm chủ cuộc đời mình.
- Trân trọng chính mình cần thiết để mỗi người xác định được giá trị sống phù hợp, cảm nhận được niềm vui, ý nghĩa của cuộc sống.
d. Chỉnh tả, ngữ pháp, Bảo đảm chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
e. Sáng tạo
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.
Câu 2. Cảm nhận của anh/chị về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên; từ đó, nhận xét tư tưởng nhân đạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu thể hiện qua đoạn trích.
a. Bảo đảm cấu trúc bài văn nghị luận
Mở bài nếu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận Nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích; tư tưởng nhân đạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; bảo đảm các yêu cầu sau:
* Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Minh Châu, tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa", đoạn trích và hình tượng người đàn bà hàng chải.
* Cảm nhận về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích
- Hoàn cảnh, số phận: nghèo khổ, xấu xí, là nạn nhân của bạo lực gia đình (Từ nhỏ tuổi tôi đã là một đứa con gái xấu, lại ở mặt, sau một bận lên đậu mùa; các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối, Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh.
- Vẻ đẹp, phẩm chất
+ Nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha: không trách chồng mà nhận lỗi về phía mình (lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, thà thuyền lại chật ; thương con, muốn tránh cho các con không bị tổn thương (tôi mới xin được với lão... đưa tôi lên bờ mà đảnh).
+ Sâu sắc, từng trải, thấu hiểu lẽ đời: hiểu bản chất của chồng (một anh con trai cục tỉnh nhưng hiền lành), hiểu người chồng chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh (nghèo khổ, túng quẫn vì trốn lính, vì đông con, vì gánh nặng nhưu sinh ; hiểu thiên chức của người đàn bà và vai trò của người đàn ông, từ đó, thay đổi cách nhìn của Đẩu và Phùng về cuộc sống, con người (Là bởi vì các chứ không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chỉ biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông ...
- Nghệ thuật khắc hoạ nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống nhận thức, khắc hoạ nhân vật từ điểm nhìn của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, xây dựng đối thoại để nhân vật tự bộc lộ hoàn cảnh, phẩm chất; ngôn ngữ giản dị mà đậm chất triết lí ...
* Nhận xét về tư tưởng nhân đạo của nhà văn:
- Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Minh Châu: khám phá, phát hiện vẻ đẹp tiềm ẩn, khuất lấp của con người giữa đời thường, thể hiện sự thấu hiểu, xót thương và lo âu trăn trở cho số phận của những người xung quanh.
- Tư tưởng nhân đạo đã tạo nên giá trị, sức sống của tác phẩm; thể hiện tâm huyết, trách nhiệm và sự đổi mới của nhà văn trong cách tiếp cận cuộc sống con người.
d. Chính tả, ngữ pháp
Bảo đảm chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt
e. Sáng tạo
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.
ĐỀ THI SỐ 2
I. ĐỌC – HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
Trăm trứng mẹ Âu Cơ, những quả trứng vũ trụ
Và một ngày nở ta
Ta đẫm hương một chiều sen xanh mướt
Mẹ ru ta ngàn xưa tiếng Việt
Hạt gạo trắng nuôi ta mặn mòi châu thổ
Tóc ta bay cùng phấp phới cánh cò
Gom rơm mục đồng về lót gối
Hành trình dài, thao thức cơn mơ
Gặt mùa nắng chín
Châu thổ Cửu Long nghiêng bến
Trường Sơn điệp trùng cuộn lời
Hồng Hà phù sa ta
Ta đã qua bao phố phường tráng lệ
Paris ánh sáng hay London cổ kính
Lòng vẫn trôi về bến
Cội nguồn văng vẳng à ơi
Mái đình cong trăng khuyết
Triền sông mướt câu hò
Đường làng rơm thơm vào trí nhớ
Rặng tre già măng non ta
Về dòng thác người cuộn về muôn hướng
Chảy không nguôi dòng máu Lạc Hồng
Giấc mơ nào từng ôm ấp biển Đông?
(Trích Là Việt, Tập thơ Tổ quốc gọi tên mình, Nguyễn Phan Quế Mai, NXB Phụ nữ, 2015, tr 14 – 15)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích trên.
Câu 2. Trong hai khổ thơ đầu đoạn trích, tuổi thơ của nhân vật trữ tình gắn liền với những hình ảnh nào của quê hương?
Câu 3. Những dòng thơ sau giúp anh/chị hiểu gì về tâm trạng của nhân vật trữ tình khi ở cách xa quê hương?
Lòng vẫn trôi về bến
Cội nguồn văng vẳng à ơi
Mái đình cong trăng khuyết
Triền sông mướt câu hò
Đường làng rơm thơm vào trí nhớ
Rặng tre già măng non ta
Câu 4. Nội dung của những dòng thơ sau có ý nghĩa gì với anh/chị?
Về dòng thác người cuộn về muôn hướng
Chảy không nguôi dòng máu Lạc Hồng
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2.0 điểm)
Từ nội dung đoạn văn bản trong phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa của việc hướng về cội nguồn trong cuộc sống hôm nay.
Câu 2. (5,0 điểm)
Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ1 mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt2 bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất3 tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.
Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.
(Trích Người lái đò sông Đà, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam 2021, tr.186, 187)
Phân tích hình tượng Sông Đà trong đoạn văn trên. Từ đó, nhận xét về sự tài hoa trong cách sử dụng ngôn ngữ của nhà văn Nguyễn Tuân.
-----------------HẾT----------------
ĐÁP ÁN ĐỀ THI SỐ 2
I. ĐỌC – HIỂU
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính được sử dụng là: Biểu cảm
Câu 2. Những hình ảnh quê hương gắn liền với tuổi thơ của nhân vật trữ tình trong hai khổ thơ đầu của đoạn trích là: chiều sen xanh mướt; hạt gạo; mặn mòi châu thổ; phấp phới cánh cò; rơm; đồng.
Lưu ý:
- HS trả lời được 05 - 06 ý cho 0,75 điểm.
- HS trả lời được 03 - 04 ý cho 0,5 điểm.
- HS trả lời được 01 - 02 ý hoặc trích dẫn nguyên văn các dòng thơ cho 0,25 điểm
Câu 3. Những dòng thơ đã khắc họa hình ảnh của quê hương trong kí ức của nhân vật trữ tình như: mái đình; triền sông; câu hò; đường làng thơm; rặng tre già măng non
- Những dòng thơ giúp ta hiểu về tâm trạng của nhân vật trữ tình:
+Nỗi nhớ da diết; niềm tự hào về vẻ đẹp của quê hương. (0.5 điểm)
+ Tình yêu quê hương sâu sắc, chân thành. (0,25 điểm)
Câu 4. Nội dung hai dòng thơ: Những con người Việt Nam cho dù có đi muôn nơi trên thế giới thì vẫn mang trong mình dòng máu Lạc Hồng.
- Ý nghĩa:
+ Giúp mỗi chúng ta nhận thức sâu sắc hơn về cội nguồn của chính mình. Đều mang trong mình dòng máu Việt, dòng máu Lạc Hồng. (0.25 điểm)
+ Đánh thức trong chúng ta tình yêu, niềm tự hào, tinh thần trách nhiệm đối với cội nguồn dân tộc. (0.25 điểm)
II. LÀM VĂN
Câu 1. Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) về ý nghĩa của việc hướng về cội nguồn trong cuộc sống hôm nay
a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn. Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng - phân - hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận. Ý nghĩa của việc hướng về cội nguồn trong cuộc sống hôm nay.
c. Triển khai vấn đề nghị luận Thí sinh có thể lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ ý nghĩa của việc hướng về cội nguồn.
Câu 2. Cảm nhận hình tượng Sông Đà qua đoạn văn. Từ đó nhận xét sự tài hoa trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận Hình tượng Sông Đà qua đoạn văn; nhận xét về sự tài hoa trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm
Thí sinh có thể triển khai vấn đề theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao fitác lập luận, kết hợp chặt chẽ gữa lí lẽ và dẫn chứng; đảm bảo các yêu cầu sau:
* Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Tuân, tùy bút “Người lái đò Sông Đà” và đoạn văn
* Phân tích hình tượng Sông Đà trong đoạn văn
- Hình tượng Sông Đà hùng vĩ, hung bạo:
- Hình tượng Sông Đà được khắc hoạ bằng từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh; những câu văn dài; nghệ thuật nhân hóa, so sánh tạo những liên tưởng độc đáo, bất ngờ, thú vị kết hợp với tả, kể với các điệp từ, điệp ngữ...
* Nhận xét về sự tài hoa trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.
---(Để xem đầy đủ nội dung của Đề thi số 2 vui lòng xem online hoặc đăng nhập vào Học247 để tải về máy)---
ĐỀ THI SỐ 3
I. ĐỌC – HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
Miền Trung
Câu ví dặm nằm nghiêng
Trên nắng và dưới cát
Đến câu hát cũng hai lần sàng lại
Sao lọt tai rồi vẫn day dứt quanh năm.
Miền Trung
Bao giờ em về thăm
Mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt
Lúa con gái mà gầy còm túa đỏ
Chỉ gió bão là tốt tươi như có
Không ai gieo mọc trắng mặt người.
Miền Trung
Eo đất này thắt đáy lưng ong
Cho tình người đọng mật
Em gắng về
Đừng để mę già mong…
(Trích Miền Trung, Hoàng Trần Cương, Thơ hay Việt Nam thế kỉ XX, NXB Văn hóa Thông tin, 2006, tr. 81-82)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Đoạn trích trên được viết theo thể thơ nào?
Câu 2. Chỉ ra hai hình ảnh trong đoạn trích diễn tả sự khắc nghiệt của thiên nhiên miền Trung.
Câu 3. Những dòng thơ sau giúp anh/chị hiểu gì về mảnh đất và con người miền Trung?
Miền Trung
Eo đất này thắt đáy lưng ong
Cho tình người đọng mật
Câu 4. Anh/Chị hãy nhận xét về tình cảm của tác giả đối với miền Trung được thể hiện trong đoạn trích.
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về sức mạnh của tình người trong hoàn cảnh khó khăn thử thách.
Câu 2. (5,0 điểm)
Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyên dùng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiểu tím” như người Huế thường miêu tả. Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ tỏa lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”. Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà…
(Trích Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, tr.198-199).
Phân tích hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về tính trữ tình của bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.
----------------HẾT---------------
ĐÁP ÁN ĐỀ THI SỐ 3
I. ĐỌC - HIỂU
Câu 1(0,5 điểm): Đoạn trích trên được viết theo thể thơ tự do.
Câu 2 (0,5 điểm): Học sinh có thể lựa chọn hai trong các hình ảnh sau:
Câu 3 (1,0 điểm):
Miền Trung
Eo đất này thắt đáy lưng ong
Cho tình người đọng mật
– Mảnh đất miền Trung: địa hình hẹp ngang, thường phải gánh chịu thiên tai, lũ lụt; tạo nên những bất lợi cho hoạt động sản xuất và sinh sống của người dân.
Câu 4 (1,0 điểm): Anh/Chị hãy nhận xét về tình cảm của tác giả đối với miền Trung được thể hiện trong đoạn trích.
– Học sinh có thể tự đưa ra quan điểm của mình, lý giải.
– Gợi ý:
+ Thấu hiểu những khắc nghiệt của thiên nhiên và những khó khăn, vất vả mà người dân miền Trung phải gánh chịu.
+ Bộc lộ tình yêu, tình cảm gắn bó máu thịt và lòng trân trọng của tác giả đối với con người nơi đây.
II. LÀM VĂN
Câu 1.
1. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn (0,25 điểm)
– Viết thành đoạn văn (khoảng 200 chữ).
– Có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng-phân-hợp, móc xích hoặc song hành.
2. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Sức mạnh của tình người trong hoàn cảnh khó khăn thử thách. (0,25 điểm)
3. Triển khai vấn đề nghị luận (1,0 điểm)
Thí sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ sức mạnh của tình người trong hoàn cảnh khó khăn thử thách. Có thể theo hướng sau:
– Giải thích:
– Chứng minh: Nêu và phân tích được một vài minh chứng cho sức mạnh của tình người trong khó khăn, thử thách.
VD: Người Việt chia sẻ khó khăn, đùm bọc lẫn nhau trong đại dịch Covid-19 hay trong đợt lũ lụt lịch sử năm 2021….
– Liên hệ, mở rộng:
4. Chính tả, ngữ pháp: Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt. (0,25 điểm)
5. Sáng tạo: Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận. (0,25 điểm)
Câu 2.
1. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận (0,25 điểm):
– Mở bài giới thiệu được vấn đề;
– Thân bài triển khai được vấn đề;
– Kết bài khái quát được vấn đề.
2. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0,5 điểm):
– Cảm nhận vẻ đẹp của sông Hương trong đoạn trích đã cho.
– Nhận xét tính trữ tình của bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.
3. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm
a. Mở bài (0,5 điểm): Giới thiệu khái quát về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường và bài bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?
b. Thân bài (3,5 điểm): Triển khai hệ thống luận điểm
* Phân tích vẻ đẹp của sông Hương khi chảy về đồng bằng và ngoại vi thành phố Huế
– Sông Hương mang vẻ đẹp dịu dàng, duyên dáng như một người con gái:
– Sông Hương mang vẻ đẹp trầm mặc, cổ kính:
– Nghệ thuật:
---(Để xem đầy đủ nội dung của Đề thi số 3 vui lòng xem online hoặc đăng nhập vào Học247 để tải về máy)---
ĐỀ THI SỐ 4
I. ĐỌC – HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau:
"Thế hệ sinh ra trong những năm tháng chiến tranh rất hay dùng từ “lý tưởng”. Ngày nay, các bạn trẻ ngại dùng từ này. Nhiều bạn cho rằng lý tưởng là một cái gì đó quá cao siêu, không dành cho những người có “giấc mơ con đè nát cuộc đời con” như họ. Thực ra, lý tưởng có thể hiểu đơn giản là xác định mục tiêu, đích đến trong cuộc đời mỗi người. Ngay từ thuở học vỡ lòng, có thể bạn đã được cô giáo hỏi sau này muốn làm gì, trở thành người như thế nào. Điều lạ lùng là những đứa trẻ trả lời rất nhanh câu hỏi này, trong khi nhiều người sắp trưởng thành lại lúng túng không tìm ra đáp án cho chính mình. Hình như càng lớn lên thì người ta càng hay đánh rơi ước mơ của mình. “Tôi không biết mình thực sự muốn gì”, đó là câu trả lời tôi thường được nghe khi hỏi những người đang chọn trường đại học để nộp hồ sơ dự thi.
Các cơ quan, tổ chức muốn phát triển thì luôn phải lập ra kế hoạch hàng tháng, hàng quý, hàng năm, thậm chí là chục năm. Bạn cũng nên lập kế hoạch ngắn hạn và dài hạn cho cuộc đời mình. Mỗi người cần xác định rõ ưu điểm của bản thân, nếu bạn biết mình mạnh ở điểm nào, nếu bạn rõ niềm say mê của mình, bạn sẽ nhìn thấy mục tiêu của cuộc đời bạn. Hãy cầm lấy tay chèo và hướng về cái đích mà bạn tự đặt ra cho mình, đừng để cuộc đời bạn trôi đi mông lung giữa trùng dương vô tận".
(Trích "50 Điều trường học không dạy bạn", Charles J. Sykes, Nxb Lao Động – Xã Hội, 2001, Tr. 115)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích ?
Câu 2. Theo tác giả, “lý tưởng” có nghĩa là gì ?
Câu 3. Anh/chị hiểu thế nào về câu văn: “đừng để cuộc đời bạn trôi đi mông lung giữa trùng dương vô tận” ?
Câu 4. Anh/chị có đồng tình với quan điểm “Hình như càng lớn lên thì người ta càng hay đánh rơi ước mơ của mình” không ? Vì sao ?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về sự cần thiết phải có lý tưởng trong cuộc sống.
Câu 2. (5,0 điểm)
[…] "Giáp mặt thành phố ở cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Và như vậy, giống như sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét; sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông. Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố thị, với những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được. Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Tôi đã đến Lê-nin-grát, có lúc đứng nhìn sông Nê-va cuốn trôi những đám băng lô xô, nhấp nháy trăm màu dưới ánh sáng của mặt trời mùa xuân; mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng; và đoàn tàu tốc hành lạ lùng ấy với những hành khách tí hon của nó băng băng lướt qua trước cung điện Pê-téc-bua cũ để ra biển Ban-tích. Tôi vừa từ trong khói lửa miền Nam đến đây, lâu năm xa Huế, và chính Lê-nin-grát đã đánh thức trong tâm hồn tôi giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại; ôi, tôi muốn hóa làm một con chim nhỏ đứng co một chân trên con tàu thủy tinh để đi ra biển. Tôi cuống quýt vỗ tay, nhưng sông Nê-va đã chảy nhanh quá, không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo. (…) Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố… Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng".
(Trích "Ai đã đặt tên cho dòng sông ?", Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, Tập 1, NXB Giáo Dục Việt Nam 2020, tr. 199-200)
Cảm nhận của anh/chị về hình tượng con sông Hương qua đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về chất lãng mạn, tài hoa trong bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
-----------------HẾT----------------
ĐÁP ÁN ĐỀ THI SỐ 4
I. ĐỌC – HIỂU
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận
Câu 2. Theo tác giả, “lý tưởng” có thể hiểu đơn giản là xác định mục tiêu, đích đến trong cuộc đời mỗi người.
Câu 3. Câu văn: “đừng để cuộc đời bạn trôi đi mông lung giữa trùng dương vô tận” có thể hiểu là: Đừng sống một cuộc sống không có mục tiêu, không có lý tưởng; hãy xác định mục tiêu và làm chủ hướng đi của cuộc đời mình.
Câu 4. Thí sinh tự do bày tỏ quan điểm, miễn là có lý giải thuyết phục. Tham khảo:
- Đồng tình
- Lý giải:
II. LÀM VĂN
Câu 1.
a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn
Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng-phân-hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Sự cần thiết phải có lý tưởng trong cuộc sống.
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Thí sinh có thể lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề cần nghị luận, nhưng phải đúng trọng tâm mà đề bài yêu cầu. Tham khảo:
- Lý tưởng chính là mục đích, là ý nghĩa của cuộc đời mà mỗi người cần xác định và theo đuổi, thực hiện.
d. Chính tả, ngữ pháp
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt
e. Sáng tạo
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ
Câu 2.
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận
Mở bài nêu được vấn đề; thân bài triển khai được vấn đề; kết bài khái quát được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
c. Nêu được những nét khái quát về tác giả, tác phẩm
d. Triển khai vấn đề nghị luận:
1. Cảm nhận về hình tượng con sông Hương
- Sông Hương khi chảy vào thành phố Huế không chỉ vui tươi hơn, mềm mại và dịu dàng hơn, mà còn có vẻ đẹp lãng mạn.
- Tác giả đã so sánh sông Hương của Huế với sông Xen của Pari, sông Đanuyp của Bu-đa-pét. Cả ba dòng sông này đều chảy trong lòng thành phố, thế nhưng sông Hương là đặc biệt nhất:
2. Nhận xét về chất lãng mạn, tài hoa trong bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Chất lãng mạn: Sông Hương dưới cái nhìn nhân hóa của tác giả, không còn là một dòng sông vô tri, mà đã trở thành một cô gái Huế say đắm tình yêu.
- Chất tài hoa: Lối hành văn đẹp với những liên tưởng, so sánh độc đáo; vốn hiểu biết phong phú.
3. Vài nét về nghệ thuật của đoạn trích
---(Để xem đầy đủ nội dung của Đề thi số 4 vui lòng xem online hoặc đăng nhập vào Học247 để tải về máy)---
ĐỀ THI SỐ 5
I. ĐỌC – HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
đã bao giờ em bóc lịch
thấy qua vô nghĩa một ngày
rồi em ghi vào nhật kí
...ngày mai như ngày hôm nay...
đã bao giờ em hoảng hốt
khi mình bất lực trước mình
và em thấy trong đôi mắt
có gì ứa ra
vô hình
nếu có xin em đừng sợ
thật ra là rất bình thường
tất cả chúng ta đều thế
mỗi khi cần được yêu thương
(Lẽ giản đơn - Nguyễn Thế Hoàng Linh)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Bài thơ được viết theo thể thơ nào?
Câu 2. Trong bài thơ, tác giả đã nhắc đến những cảm giác, tâm trạng gì mà “em” có thể đã hoặc sẽ gặp trong cuộc đời?
Câu 3. Nêu hiệu quả của phép điệp cấu trúc được sử dụng trong bài thơ.
Câu 4. Qua điều mà tác giả muốn nhắn nhủ tới “em” trong bài thơ, anh/ chị rút ra bài học gì?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về những điều cần làm để mỗi ngày trôi qua không vô nghĩa.
Câu 2. (5,0 điểm)
“Hồn Trương Ba: (một mình) Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi cách để lấn át ta... (sau một lát) Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? “Chẳng còn cách nào khác”! Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!
(Đứng dậy, lập cập nhưng quả quyết, đến bên cột nhà, lấy một nén hương châm lửa, thắp lên. Đế Thích xuất hiện.)
Đế Thích: Ông Trương Ba! (thấy vẻ nhợt nhạt của Hồn Trương Ba) Ông có ốm đau gì không? Một tuần nay tôi bị canh giữ chặt quá, không xuống đánh cờ với ông được, nhưng ông đốt hương gọi, đoán là ông có chuyện khẩn, tôi liều mạng xuống ngay. Có việc gì thế?
Hồn Trương Ba: Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể được!
Đế Thích: Sao thế? Có gì không ổn đâu!
Hồn Trương Ba: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn là tôi toàn vẹn.
Đế Thích: Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả ư? Ngay cả tôi đây. Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong. Mà cả
Ngọc Hoàng nữa, chính người lắm khi cũng phải khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng.Dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông.Ông đã bị gạch tên khỏi sổ Nam Tào. Thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút hình thù gì của ông đâu!
Hồn Trương Ba: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác, đã là chuyện không nên, đằng này cái thân tôi cũng phải sống nhờ vào anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!
Đế Thích: (không hiểu) Nhưng mà ông muốn gì?
Hồn Trương Ba: Ông từng nói: Nếu thân thể người chết còn nguyên vẹn, ông có thể làm cho hồn người đó trở về. Thì đây, (chỉ vào người mình) thân thể anh hàng thịt còn lành lặn nguyên xi đây, tôi trả lại cho anh ta. Ông hãy làm cho hồn anh ta được sống lại với thân xác này.
Đế Thích: Sao lại có thể đổi tâm hồn đáng quý của bác lấy chỗ cho cái phần hồn tầm thường của anh hàng thịt ?
Hồn Trương Ba: Tầm thường, nhưng đúng là của anh ta, sẽ sống hòa thuận được với thân anh ta, chúng sinh ra là để sống với nhau. Vả lại, còn…còn chị vợ anh ta nữa…chị ta thật đáng thương!”
(Trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt – Lưu Quang Vũ, SGK Ngữ văn 12, trang 149, NXBGD)
Cảm nhận của anh/ chị về nhân vật Hồn Trương Ba trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về triết lí nhân sinh mà nhà văn Lưu Quang Vũ gửi gắm qua nhân vật.
----------------HẾT---------------
ĐÁP ÁN ĐỀ THI SỐ 5
I. ĐỌC - HIỂU
Câu 1. Thể thơ: tự do
Câu 2. Trong bài thơ, tác giả nhắc đến những cảm giác, tâm trạng mà “em” có thể đã hoặc sẽ gặp trong cuộc đời: thấy vô nghĩa, thấy hoảng hốt, bất lực, thấy trong mắt có gì ứa ra vô hình.
Câu 3.
- Biện pháp tu từ điệp cấu trúc: Cấu trúc câu “đã bao giờ…” kết hợp với tình huống hành động hoặc tâm trạng cụ thể.
- Tác dụng:
Câu 4.
- Điều tác giả muốn nhắn nhủ tới “em” trong bài thơ: Đừng sợ hãi khi phải đối mặt với cảm giác trống rỗng, âu lo, hoảng hốt, bất lực trong cuộc sống. Bởi đó là lẽ bình thường ai cũng có thể trải qua. Khi đó tình yêu thương sẽ giúp con người vượt qua.
II. LÀM VĂN
Câu 1. Viết đoạn văn về những điều cần làm để cuộc sống trôi qua không vô nghĩa
a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: những điều cần làm để cuộc sống trôi qua không vô nghĩa.
c. Triển khai vấn đề nghị luận: Học sinh có thể lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai nhưng phải lí giải được vấn đề, có thể theo hướng sau:
- Nhận thức rõ hoàn cảnh sống, vị trí và năng lực của bản thân; sự quý giá của thời gian và hậu quả đáng tiếc khi để thời gian trôi đi vô nghĩa.
- Đặt ra những mục tiêu, kế hoạch; sử dụng thời gian hợp lí; kiên trì, bền bỉ thực hiện bằng tất cả nhiệt huyết, say mê.
- Góp những giá trị sống ý nghĩa, lan tỏa yêu thương đến mọi người, xây đắp xã hội nhân văn, phát triển.
Câu 2. Cảm nhận về nhân vật Trương Ba trong đoạn trích. Từ đó, nhận xét về triết lí nhân sinh nhà văn Lưu Quang Vũ gửi gắm qua nhân vật.
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận
Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: cảm nhận nhân vật Trương Ba; nhận xét về triết lí nhân sinh nhà văn Lưu Quang Vũ gửi gắm qua nhân vật.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm: Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách nhưng cần đảm bảo các yêu cầu sau:
c1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm và nhân vật
c2. Cảm nhận về nhân vật Trương Ba trong đoạn trích
- Bối cảnh xuất hiện của nhân vật:
+ Sống trong xác hàng thịt, Hồn Trương Ba phải trải qua bi kịch đau đớn nghiệt ngã: bị tha hoá, bị thể xác sai khiến trở nên tầm thường, bị người thân hắt hủi xa lánh.
+ Bị đẩy vào tình cảnh bế tắc, tuyệt vọng và muốn gặp Đế Thích để tìm lối thoát.
- Triết lí nhân sinh nhà văn Lưu Quang vũ gửi gắm qua nhân vật Trương Ba: Được sống là điều may mắn nhưng sống ý nghĩa mới thực sự quan trọng; Chỉ khi sống hòa hợp giữa thể xác và linh hồn, bên trong và bên ngoài thống nhất toàn vẹn, sống là chính mình con người mới thực sự hạnh phúc; Để được sống là chính mình, sống ý nghĩa, con người phải biết đấu tranh chống lại sự dung tục, tầm thường, chiến thắng nghịch cảnh.
---(Để xem đầy đủ nội dung của Đề thi số 5 vui lòng xem online hoặc đăng nhập vào Học247 để tải về máy)---
Trên đây là một phần trích đoạn nội dung Bộ 5 đề thi thử THPT QG môn Ngữ văn năm 2021-2022 có đáp án trường THPT Phước Kiển. Để xem thêm nhiều tài liệu tham khảo hữu ích khác các em chọn chức năng xem online hoặc đăng nhập vào trang Hoc247.net để tải tài liệu về máy tính.
Các em quan tâm có thể tham khảo tài liệu cùng chuyên mục:
- Bộ 3 đề thi thử THPT QG môn Ngữ văn năm 2021-2022 có đáp án trường THPT Võ Nguyên Giáp
- Bộ 3 đề thi thử THPT QG môn Ngữ văn năm 2021-2022 có đáp án trường THPT Lê Văn Hưu
Hy vọng tài liệu này sẽ giúp các em học sinh ôn tập tốt và đạt thành tích cao trong học tập.