Nhằm giúp các em rèn luyện và nâng cao kĩ năng viết bài văn nêu cảm nghĩ của bản thân về một câu chuyện hay mà bản thân yêu thích, Học247 mời các em cùng tham khảo bài văn mẫu Cảm nghĩ về truyện Sự tích Hồ Gươm dưới đây nhé! Bài văn mẫu gồm sơ đồ tóm tắt gợi ý, dàn ý chi tiết cùng với bài văn mẫu được chọn lọc, hi vọng sẽ giúp các em có một bài văn thật hay nhé! Ngoài ra, để làm phong phú thêm kiến thức cho bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài văn mẫu Đóng vai Lê Lợi kể lại Sự tích Hồ Gươm.
1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý
2. Dàn bài chi tiết
a. Mở bài:
- Sau khi lên làm vua và trả gươm báu cho Long Quân qua Rùa Vàng, ta nhớ lại toàn bộ sự việc diễn ra kể từ khi giặc Minh xâm lược nước ta cho đến khi ta dấy binh khởi nghĩa ở đất Lam Sơn và chiến thắng quân Minh.
- Ta sẽ kể lại toàn bộ câu chuyện xảy ra cho các tướng sĩ nghe vì sao ta có thanh gươm báu và thanh gươm báu đã giúp ta đánh giặc như thê nào. Câu chuyện như sau...
b. Thân bài:
* Giặc Minh xâm lược nước ta:
- Giặc Minh sang xâm lược nước ta. Chúng coi dân ta như cỏ rác, làm nhiều điều bạo ngược. Tội ác của chúng chồng chất không sao kế hết.
- Lòng dân căm giận chúng đến tận xương tủy.
- Ta sinh ra và lớn lên ở Thanh Hóa. Căm thù giặc quyết không đội trời chung, ta dấy binh khơi nghĩa tại đất Lam Sơn.
- Trong buổi đầu khới nghĩa, thế lực còn non yếu nên nhiều lần nghĩa quân của ta bị thua. Ta đang tìm mọi kế sách để đánh giặc Minh.
* Diễn biến sự việc:
- Trong đoàn quân khởi nghĩa của ta cổ một người tên là Lê Thận. Người lính này luôn hăng hái, gan dạ, không nề nguy hiểm.
- Một hôm, ta cùng mấy người tùy tòng đến nhà Lê Thận. Trong xó nhà tối om bồng nhiên có một thanh sắt sáng rực lên. Ta liền cầm lên xem mới biết đổ là một lưỡi gươm chứ không phải thanh sắt. Trên lười gươm có hai chữ “Thuận Thiên”. Lúc đó, ta chưa biết đấy là một báu vật.
- Ta hỏi Lê Thận vì sao có lưỡi gươm đó. Lê Thận kế cho ta và những tùy tòng của ta nghe vì sao mình có được lười gươm đó.
- Một hôm, bị giặc đuổi, ta và các tướng rút lui mỗi người một ngả. Lúc đi qua một khu rừng, ta bỗng thấy có ánh sáng lạ trên ngọn cây đa. Ta trèo len mới biết đó là một cái chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ tới lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, ta liền lấy chuôi gươm giắt vào lưng.
- Ba ngày sau, ta gặp lại mọi người trong đó có Lê Thận. Ta đem chuyện bắt dược chuôi gươm kế lại cho mọi người, trong đó có Lê Thận nghe. Mọi người nói chắc có điềm lành nên Lê Thận đã về lấy lưỡi gươm cho ta. Khi ta lấy lưỡi gươm tra vào chuôi thì vừa như in.
- Lê Thận nâng thanh gươm lên và nói với ta: “Đây là Trời có ý phó thác cho minh công làm việc lớn. Chúng lôi nguyện đem xương thịt của mình theo minh công, cùng với thanh gươm thần này để báo đền Tổ quốc”.
* Kết quả:
- Từ khi có thanh gươm báu, khí thế của nghĩa quân ngày một tăng.
- Từ thế bị động, có lúc phái trốn tránh, bây giờ nghĩa quân chủ động tìm giặc đánh. Nghĩa quân không còn phải khổ cực nữa mà đã có những kho lương của giặc ta chiếm được.
- Gươm thần mở đường cho nghĩa quân ta đánh tràn ra mãi. Cho đến lúc không còn một tên giặc nào trên đất nước ta.
- Chiến thắng giặc Minh, ta lên làm vua.
c. Kết bài:
- Ta đổi tên hồ Tả Vọng thành Hồ Gươm.
- Cảm nghĩ của nhân vật.
3. Bài văn mẫu
Đề bài: Em hãy viết một bài văn ngắn nêu cảm nhận của em về truyện Sự tích Hồ Gươm.
Gợi ý làm bài:
3.1. Bài văn mẫu số 1
Trong hệ thống truyền thuyết của nước ta, có lẽ Sự tích Hồ Gươm là truyền thuyết ít mang tính chất tưởng tượng, kì ảo nhất. Đọc tác phẩm ta như được sống lại những năm tháng chiến đấu hào hùng, oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Và càng thêm kính yêu hơn nữa vị anh hùng Lê Lợi đã đem lại độc lập, tự do cho dân tộc.
Giặc Minh lấy cớ phù Trần diệt Hồ mà thực chất là sang xâm chiếm, đô hộ nước ta. Cuộc sống của nhân dân vô cùng khổ cực, bị quân Minh chèn ép, bức hại. Trước tình cảnh lầm than của nhân dân, Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa. Những buổi ban đầu nghĩa quân còn yếu, nhiều lần bị đánh lui. Thấy vậy, Long Quân bèn cho Lê Lợi mượn gươm thần. Nhưng cách Long Quân cho mượn gươm cũng hết sức đặc biệt, ngài không đưa tận tay cho Lê Lợi mà phải trải qua một quá trình gian nan.
Long Quân cho gươm mắc vào lưới đánh cá của Lê Thận ba lần, Lê Thận lần nào cũng gỡ lấy gươm rồi vứt trở lại sông, qua khúc sông khác thả lưới lại vẫn vớt được lưỡi gươm ấy. Thấy sự lạ, Lê Thận bèn mang gươm trở về. Còn chuôi gươm lại là do vị chủ tướng Lê Lợi lấy được trên cây đa. Cách cho mượn gươm của Long Vương cho thấy rằng đây là thanh gươm thần, bởi vậy không thể trao theo một cách thức dễ dàng mà phải vượt qua thử thách mới có được nó. Không chỉ vậy, hình ảnh lưỡi gươm và chuôi gươm được tìm thấy ở hai địa điểm khác nhau (dưới nước, trên rừng) cũng cho thấy muốn đánh lại kẻ thù thì toàn dân ta phải đoàn kết, hợp nhất, chỉ có như vậy mới tạo nên sức mạnh to lớn đánh đuổi kẻ thù.
Đến khi quét sạch bóng quân thù trong một lần đi tản mạn trên dòng sông ấy, đến giữa dòng thì thấy một con rùa vàng nổi lên nói là đòi lại thanh kiếm báu. Đó chính là thần kim quy ngày nay mà chúng ta vẫn hay gọi. Lê Lợi hoàn lại thanh kiếm và từ đó nơi đây có tên gọi là Hồ Gươm hay là Hồ Hoàn Kiếm.
Như vậy ta thấy chuyện Long Quân cho mượn gươm được tác giả dân gian miêu tả rất khéo. Nếu để Lê Lợi trực tiếp nhận chuôi gươm và lưỡi gươm cùng một lúc thì sẽ không thể hiện được tính chất toàn dân, trên dưới một lòng của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến Thanh gươm Lê Lợi nhận được là thanh gươm thống nhất, hội tụ tư tưởng, tình cảm, sức mạnh của toàn dân trên mọi miền đất nước.
Sau việc Lê Lợi trả gươm cho Long Quân, hồ Tả Vọng được đổi tên là Hồ Gươm (hay hồ Hoàn Kiếm). Tên hồ Hoàn Kiếm (trả gươm) có ý nghĩa là gươm thần vẫn còn đó và nhắc nhở tinh thần cảnh giác đối với mọi người, răn đe những kẻ có tham vọng dòm ngó đất nước ta. Tên hồ đánh dấu và khẳng định chiến thắng hoàn toàn của khởi nghĩa Lam Sơn đối với giặc Minh, phản ánh tư tưởng yêu hòa bình đã thành truyền thống của dân tộc ta.
3.2. Bài văn mẫu số 2
Về với Hà Nội yêu dấu, ai cũng một lần muốn ghé thăm Hồ Gươm xinh đẹp, nơi từng đã trải qua biết bao thăng trầm lịch sử, cảnh vật huy hoàng đều đã nhuốm màu của thời gian. Nhưng mặt hồ vẫn trong xanh, như một tấm gương ngọc, yên bình nằm giữa vòng tay của thủ đô, in sâu trong ký ức người dân nơi đây với câu chuyện Sự tích Hồ Gươm.
Bằng những lời văn ly kỳ, hấp dẫn Sự tích Hồ Gươm đã khái quát một cách ngắn gọn về công cuộc chống quân Minh xâm lược, qua đó ca ngợi sự anh hùng, tinh thần chiến đấu anh dũng, lòng tự tôn dân tộc sâu sắc của quân dân ta thuở bấy giờ. Chi tiết tặng gươm là biểu trưng cho tư tưởng tuân mệnh trời đã có từ hàng ngàn năm nay, trời cao có mắt, vốn rất sáng suốt, hễ là việc chính nghĩa thì thần phật sẽ giúp đỡ, phù hộ bằng một cách nào đó, và người làm việc chính nghĩa luôn chiến thắng mặc dù có phải gặp nhiều khó khăn vất vả. Đây cũng là mô típ và kết cấu thường thấy trong văn học phương Đông, rất đặc sắc, những kiến thức lịch sử dễ dàng đi sâu lòng người đọc người nghe và để lại ấn tượng sâu sắc, cho ta những bài học đạo đức đầy tính nhân văn.
Lấy bối cảnh đất nước dưới thời vua Lê Lợi trị vì, khi bọn giặc Minh tìm đủ mọi cách để thâu tóm nước ta. Truyện được thành 2 phần rõ rệt: lúc vua nhận lấy gươm thần và khi trả gươm về cho Long Quân. Long Quân là nhân vật trong tượng tưởng của nhân dân. Cuộc khởi nghĩa là cuộc chiến chính nghĩa vì nước vì dân nên được tổ tiên giúp đỡ và phù hộ. Trong một lần, sau khi bị quân địch đánh bại vua đành phải lùi vào rừng để bảo vệ tính mạng rồi tiếp tục chiến đấu thì vô tình nhặt được lưỡi chuôi gươm nạm ngọc khi thấy ánh sáng kỳ lạ phát ra từ cây, nhớ ra chiếc gươm mà Lệ Thận vớt được dưới biển liên mang cho Lê Lợi, như dự đoán của Lê Lợi, chúng vừa vặn và đồng nhất với nhau.
Hai chi tiết trục vớt được gươm và Lê Lợi nhặt được chuôi gươm không hề đơn giản chỉ là sự ngẫu nhiên mà qua đó thể hiện được sự dung hòa của đất trời, lòng vua và lòng yêu nước của cả toàn dân tộc được cả trời đất chứng giám và thấu tận trời xanh. Con người trong cùng dân tộc thì luôn hướng về nhau. Chuôi gươm tượng trưng cho nhân dân ở miền ngược, còn lưỡi gươm tượng trưng cho nhân dân miền xuôi, dù có khó khăn như thế nào cũng luôn đồng lòng, cùng vua giữ bờ sông một cõi.
Cái gì cũng cần cho trao cho người có tài và đủ hiền đức mới có thể dựng nên nghiệp lớn. Gươm thần trao cho Lê Lợi là đúng chủ ý của cả toàn dân tộc Việt Nam, sứ mệnh giữ nước, đánh giặc, đưa non sông thu về một mối của Lê Lợi là đúng với lòng dân, luôn được nhân dân tin tưởng. khi đất nước rơi vào tình trạng lâm nguy thì chỉ có trên dưới đồng lòng, nhất trí thì mới hoàn thành được sứ mệnh.
Dẹp tan quân xâm lược, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, một năm sau khi đất nước đã ổn định, Long Quân sai Rùa thần lên đòi Lê Lợi trả lại gươm, ý muốn nói phúc trạch tổ tiên, thần linh đã giúp đỡ giữ nước, về sau công cuộc cai trị chỉ còn trông cậy vào sự nỗ lực của bậc minh quân như Lê Lợi và các trung thần cùng nhau gánh vác. Ánh sáng le lói nằm sâu dưới lòng hồ, sau khi rùa ngậm gươm biến mất như là ánh hào quang của chiến tích huy hoàng, là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, mãi mãi vẫn còn in sâu trong tâm trí nhân dân Đại Việt ta.
Lê Lợi trả gươm đại diện cho lòng yêu mến hòa bình, ý muốn sống trong thanh bình, an cư lạc nghiệp của nhân dân ta, gươm đã về với nơi linh thiêng, hy vọng tổ tiên sẽ mãi phù hộ cho đất nước, cho dân tộc được thịnh vượng, không phải sống trong cảnh lầm than, đổ máu.Sự tích Hồ Gươm là một truyện mang nhiều yếu tố kỳ ảo, gắn liền với lịch sử dân tộc trong cuộc kháng chiến với quân Minh xâm lược của Lê Lợi.
Truyện là niềm tự hào, đồng thời ca ngợi tinh thần anh dũng trong công cuộc chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta, tấm lòng kiên cường ấy đã cảm động đến tổ tiên, thần linh, được thần linh phù hộ giúp đỡ vượt qua khó khăn. Hồ Tả Vọng đổi tên thành Hồ Gươm, như nhắc nhở con dân ta tuyệt đối không thể quên những trang sử hào hùng của dân tộc, đồng thời phản ánh khát vọng hòa bình, cùng tinh thần cảnh giác cao độ với những thế lực đang nhòm ngó nước ta.
-----Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp-----