YOMEDIA
NONE

Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí - Ngữ văn 8 Tập 2 Cánh Diều


Dưới đây là nội dung bài giảng Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí thuộc sách Cánh diều do HOC247 biên soạn và tổng hợp. Với nội dung bài giảng chi tiết, rõ ràng sẽ giúp các em hình thành kĩ năng viết được bài văn nghị luận trình bày ý kiến về một tư tưởng, đạo lí cụ thể. Chúc các em đạt kết quả cao trong học tập!

ATNETWORK
YOMEDIA
 

Tóm tắt bài

1.1. Yêu cầu

1.1.1. Khái niệm

Bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí là bài văn thường tập trung làm sáng tỏ nội dung và ý nghĩa của một nhận định, một ý kiến về tư tưởng, tình cảm hay quan niệm về lối sống, cách ứng xử,... Đề văn nghị luận về tư tưởng, đạo lí thường lấy một câu danh ngôn, tục ngữ, ca dao,... nào đó để nêu lên yêu cầu.

1.1.2. Yêu cầu

- Tìm hiểu kĩ nội dung, ý nghĩa: của tư tưởng, đạo lí được nêu trong đề.

- Trình bày rõ ý kiến: (đồng tình hay phản đối) của người viết về tư tưởng, đạo lí ấy và lí giải vì sao.

- Tìm ý và lập dàn ý cho bài viết: Căn cứ vào đề bài để xác định cách tìm ý cho phù hợp (đặt câu hỏi hoặc suy luận).

- Sử dụng lí lẽ và bằng chứng phù hợp: để làm rõ ý kiến, tăng sức thuyết phục cho bài viết.

1.2. Cách viết bài văn nghị luận về một tư tưởng, đạo lí

1.2.1. Thực hành viết

a. Chuẩn bị:

- Đọc kĩ và tìm hiểu đề bài để định hướng cho bài viết:

+ Trọng tâm cần làm rõ: tinh thần bất khuất, không chịu sống nô lệ.

+ Kiểu văn bản chính: nghị luận về một tư tưởng, đạo lí.

+ Phạm vi bằng chứng cần huy động: bằng chứng thực tế; kiến thức lịch sử, địa lí và thơ văn liên quan.

- Xem lại định hướng viết bài văn nghị luận về một tư tưởng, đạo lí.

- Tìm hiểu nội dung, ý nghĩa câu nói của danh tướng Trần Bình Trọng.

 

b. Tìm ý và lập dàn ý:

* Tìm ý:

Tìm ý cho bài viết bằng cách đặt và trả lời các câu hỏi:

- Câu nói của Trần Bình Trọng có ý nghĩa gì?

- Câu nói thể hiện tư tưởng, đạo lí sống nào? Tại sao có thể nói như vậy?

- Tư tưởng, đạo lí sống đó đã thể hiện như thế nào (trong cuộc sống, văn học, nghệ thuật, lịch sử...)?

- Giá trị của tư tưởng, đạo lí sống vừa nêu là gì? Cần phê phán những biểu hiện ngược lại với tư tưởng, đạo lí sống trên như thế nào?

* Lập dàn ý:

Lập dàn ý bằng cách sắp xếp các ý đã tìm được theo bố cục ba phần:

 

c. Viết:

Dựa vào dàn ý đã làm để viết bài văn nghị luận về một tư tưởng, đạo lí. Trong khi viết, cần chú ý:

- Cách làm bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí.

- Quan hệ giữa ý kiến, lí lẽ và bằng chứng trong bài nghị luận.

- Cách chuyển ý giữa các đoạn văn (câu chuyển đoạn).

 

d. Kiểm tra và chỉnh sửa:

Tham khảo các yêu cầu đã nêu ở Bài 6, phần Viết, mục d (trang 28) và đối chiếu với dàn ý đề văn đã làm ở bài này.

=> Xem chi tiết nội dung bài giảng phần Viết ở Bài 6:

1.2.2. Rèn luyện kĩ năng viết

- Lí lẽ và bằng chứng: Để có sức thuyết phục, văn nghị luận đòi hỏi việc trình bày vấn đề, nêu ý kiến, lí lẽ và bằng chứng phải gắn bó chặt chẽ với nhau.

+ Vấn đề và ý kiến thường nêu khái quát ở phần mở bài; nhiều văn bản thường nêu vấn đề ở nhan đề bài viết.

+ Vấn đề và ý kiến được làm sáng tỏ bằng các lí lẽ và bằng chứng theo cách: nêu các ý lớn, tập trung làm sáng tỏ cho vấn đề, ý kiến; mỗi ý lớn là một đoạn văn.

- Mỗi đoạn văn gồm các lí lẽ và bằng chứng tập trung làm sáng tỏ cho ý lớn. Ví dụ:

- Câu chuyển đoạn: Để bài văn liền mạch, gắn bó nội dung giữa các phần với nhau, khi viết, cần chú ý có các câu chuyển đoạn.

Bài tập minh họa

Suy nghĩ về câu nói của danh tướng Trần Bình Trọng: “Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”.

 

Lời giải chi tiết:

Trong lịch sử nước Việt ta còn ghi lại rất nhiều câu nói bất hủ của các bậc anh hùng dân tộc, làm rạng danh nước nhà. Một trong những câu nói bất hủ phải kể đến là lời mắng: "Ta thà làm ma nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc" của danh tướng Trần Bình Trọng thời nhà Trần.

Trần Bình Trọng sinh năm Kỷ Mùi (1259), là người xã Bảo Thái (nay thuộc huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam). Ông vốn là hậu duệ của vua Lê Đại Hành. Do cha Trần Bình Trọng làm quan dưới triều Trần Thánh Tông lập được nhiều công trạng lớn, nên được nhà vua ân sủng ban cho quốc thích (cho mang theo họ vua). Bởi vậy, Trần Bình Trọng mới có họ Trần, thay vì mang họ Lê. Về chuyện này, sách Toàn thư, quyển V, kỷ Nhân Tông hoàng đế có đoạn viết: "Bình Trọng dòng dõi Lê Đại Hành, chồng sau của công chúa Thụy Bảo, do ông cha làm quan đời Trần Thái Tông, nên được cho quốc tính nhà họ Trần".

Câu chuyện Trần Bình Trọng hy sinh oanh liệt sau lời mắng nhiếc lũ giặc ngoại xâm xảy ra dưới thời vua Trần Nhân Tông, trong cuộc chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ 2. Do sự chênh lệch quá lớn về quân số, mũi quân đánh chặn của Trần Bình Trọng thất bại, Trần Bình Trọng bị bắt sống. Tuy nhiên, Trần Bình Trọng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cầm chân địch khi chúng hoàn toàn mất dấu vết nhà Trần sau trận đánh này.

Để moi móc thông tin, tướng giặc đã dùng mọi cách với Trần Bình Trọng, từ dọa dẫm tới mềm mỏng. Nhưng Trần Bình Trọng quyết không nói nửa lời. Cuối cùng, tướng giặc dụ dỗ sẽ xin phong vương nếu Trần Bình Trọng quy hàng, nhưng ông đã khẳng khái thét mắng vào mặt chúng: "Ta thà làm ma nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc". Lời thét mắng ấy thể hiện rõ quan điểm khẳng định Đại Việt là một nước độc lập và có ý coi thường triều đình phương Bắc khi ông chỉ gọi nhà Nguyên Mông là "đất Bắc". Lời thét mắng ấy của Trần Bình Trọng khiến quân giặc giận tím mặt. Chúng giết ông ngay tức khắc. Sử sách còn ghi lại thời điểm ấy là tháng Chạp năm Ất Dậu (1285). Năm ấy, Trần Bình Trọng mới có 26 tuổi. Câu nói của ông đã thể hiện tinh thần bất khuất và tấm lòng yêu nước to lớn của một vị chính nhân quân tử. Câu nói ấy đến ngày nay vẫn còn truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam, để học biết sống và cống hiến cho Tổ quốc.

Nhờ sự chiến đấu anh dũng và sự hy sinh oanh liệt, thà chết chứ không chịu làm lộ thông tin quân sự của triều đình, của Trần Bình Trọng, triều đình nhà Trần mới có thời gian và điều kiện để chuẩn bị lực lượng phản công. Sau đó chỉ vài tháng, quan quân nhà Trần đã dốc toàn lực phản công, đập tan quân Nguyên Mông. Nhiều tướng giặc bị chém đầu tại trận, trong đó có Toa Đô, Lý Hằng, Lý Quán. Riêng Thoát Hoan hoảng sợ phải chui vào ống đồng để tránh tên bắn, bắt quân lính khiêng chạy chối chết về nước.

Cuộc chiến chống giặc Nguyên Mông lần thứ 2 thắng lợi ròn rã nhờ công đóng góp không nhỏ của Trần Bình Trọng. Bởi thế, khi xét công trạng, vua Nhân Tông đã truy phong ông là Bảo nghĩa vương.

Tưởng nhớ công ơn và cảm khí tiết của Bảo nghĩa vương Trần Bình Trọng, ngày nay, tên của ông được đặt cho nhiều đường, phố ở nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước. Riêng ở Hà Nội, tên của Trần Bình Trọng được đặt cho tuyến phố nối từ phố Trần Hưng Đạo tới phố Trần Nhân Tông - hai nhân vật anh hùng cùng thời với Trần Bình Trọng gắn liền với chiến thắng vang dội trong 2 cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông, lần thứ 2 và lần thứ 3.

Lời kết

Học xong bài Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí, các em cần nắm:

- Viết được bài văn nghị luận trình bày ý kiến về một tư tưởng, đạo lí.

- Yêu quê hương, đất nước, tự hào về truyền thống dân tộc, cảm phục và noi theo tấm gương của các anh hùng dân tộc; sống lạc quan, có hoài bão, ước mơ,... nhưng không được thiếu thực tế.

Soạn bài Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí - Ngữ văn 8 Tập 2 Cánh Diều

Bài học Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí sẽ giúp các em hình thành kĩ năng viết được bài văn nghị luận trình bày ý kiến về một tư tưởng, đạo lí cụ thể. Để nắm được nội dung của bài học này, các em có thể tham khảo bài soạn:

  • Soạn văn đầy đủ Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí
  • Soạn văn tóm tắt Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí

Hỏi đáp bài Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí - Ngữ văn 8 Tập 2 Cánh Diều

Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn HỌC247 sẽ sớm trả lời cho các em. 

-- Mod Ngữ văn 8 HỌC247

NONE
AANETWORK
 

 

YOMEDIA
ATNETWORK
ON