YOMEDIA
NONE

Nêu nguy cơ dẫn đến suy giảm đa dạng sinh học

Nêu nguy cơ dẫn đến suy giảm đa dạng sinh học?

Theo dõi Vi phạm
ADSENSE

Trả lời (2)

  • Nguy cơ dẫn đến sự suy giảm đa dạng sinh học:

    - Khai thác gỗ, chặt phá rừng làm mất nơi trú ngụ của nhiều loài động vật.

    - Săn bắt buôn bắn động vật, nội tạng động vật làm cho một số loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng, làm giảm các thể sinh học

    - Sự dụng tràn lan thuốc trừ sâu, phân bón hóa học; thải các chất thải chưa qua xử lí ra biển, sông, hồ, ... làm ô nhiễm nguồn nước ngầm => các loài vật ở trong nước có thể chết

    - Khai thác dầu khí, khói bụi từ phương tiện giao thông, nhà máy, ... làm ô nhiễm môi trương => làm chết nhiều loài sinh vật

      bởi Thảo Uyên 24/10/2018
    Like (0) Báo cáo sai phạm
  • YOMEDIA

    Video HD đặt và trả lời câu hỏi - Tích lũy điểm thưởng

  • Đa dạng sinh học đang bị suy giảm với tốc độ nhanh hơn hẳn so với bất kỳ thời kỳ nào kể từ khi loài khủng long bị tuyệt diệt cách đây khoảng 65 triệu năm. Người ta cho rằng trong các rừng nhiệt đới luôn chứa đựng sự tuyệt chủng. Có khoảng 10 triệu loài sống trên trái đất, theo ước lượng chính xác nhất, và rừng nhiệt đới có từ 50 đến 90% tổng số. Khoảng 17 triệu hecta rừng nhiệt đới, một diện tích gấp 4 lần kích cỡ của Thuỵ Sỹ, đã bị phá huỷ hàng năm, và các nhà khoa học ước tính là với tốc độ này khoảng 5 – 10% các loài ở rừng nhiệt đới có thể phải đối mặt với sự tuyệt chủng trong vòng 30 năm nữa .

         Các rừng nhiệt đới không phải những nơi duy nhất có đa dạng sinh học bị đe doạ. Trên thế giới, hầu hết rừng mưa ôn đới, với nhiệt tích gần bằng diện tích của Malaysia, đã bị mất đi . Cho dù tổng quy mô rừng trong các vùng bắc cực và ôn đới phía bắc không bị biến đổi nhiều trong những năm gần đây, nhưng trong nhiều vùng, các khu rừng lâu năm, phong phú về loài đang dần dần bị thay thế bởi các rừng thứ cấp và rừng trồng.

         Đa dạng sinh học của các hệ thống nước ngọt và biển cũng đối mặt với sự suy giảm và thoái hoá nghiêm trọng. Có lẽ chịu nhiều ảnh hưởng nhất là các hệ sinh thái nước ngọt, những hệ sinh thái này phải đối mặt với sự ô nhiễm lâu dài và với sự nhập nội nhiều loài ngoại lai . Các hệ sinh thái biển cũng đang phải chịu đựng sự suy giảm của nhiều quần thể loài đơn nhất và những biến đổi sinh thái học quan trọng.

         Sự tuyệt chủng

         Sự suy giảm đa dạng sinh học có nhiều dạng nhưng trong đó có một dạng quan trọng nhất và không thể đảo ngược lại được, đó là sự tuyệt chủng của loài .

         Theo thời kỳ địa chất, tất cả các loài đều có một khoảng thời gian tồn tại hạn chế. Bởi vậy sự tuyệt chủng của loài là một quá trình tự nhiên mà không có sự can thiệp của con người . Tuy nhiên, sự tuyệt chủng trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra bởi con người đang xảy ra với một tốc độ vượt xa bất kỳ một ước tính nào về tốc độ tuyệt chủng tự nhiên, trong đó sự tuyệt chủng có liên quan đến sự xáo trộn nơi cư trú đang tăng lên.

         Tuy nhiên, định lượng tốc độ tuyệt chủng của loài, trong hiện tại và quá khứ, là rất khó và dự đoán chính xác tốc độ này trong tương lai là không thể được. Xuất phát từ những sự tuyệt chủng quan sát được, tốc độ tuyệt chủng toàn cầu được xác định từ phép ngoại suy của các tốc độ mất nơi cư trú tính toán được cũng như dự đoán, và những ước tính về độ phong phú loài ở những nơi cư trú khác nhau .

         Các nguyên nhân của suy giảm đa dạng sinh học

         Các nguồn tài nguyên sinh vật bị thoái hoá và suy giảm do các hoạt động như chặt phá và đốt rừng trên phạm vi lớn, thu hoạch quá mức các loài động vật và thực vật, sử dụng bừa bãi thuốc trừ sâu, dẫn và tiêu nước ở các vùng đất ngập nước, các hoạt động đánh cá huỷ diệt, ô nhiễm không khí và chuyển các vùng đất hoang thành các vùng đất đô thị và nông nghiệp.

         Khi vấn đề suy giảm đa dạng sinh học được xác định các nguyên nhân trực tiếp, để đối phó lại thường có các hành động phòng vệ và ngăn cản, chẳng hạn như việc ban hành luật, chấm dứt việc khai thác các nguồn tài nguyên, công bố các khu bảo tồn bổ sung. Những phản ứng này là cần thiết trong những trường hợp quá tràn lan việc khai thác quá mức. Nhưng hiếm khi những hành động này đủ để thay đổi những nguyên nhân kinh tế, xã hội đang đe doạ đa dạng sinh học.

         Sự hình thành sự khai thác quá mức bao gồm các nhu cầu về hàng hoá như gỗ, động vật hoang dã, sợi, nông sản. Dân số loài người tăng, thậm chí không đi cùng với sự tăng trưởng kinh tế và phát triển, đã đưa đến sự gia tăng các nhu cầu về tài nguyên thiên nhiên và các quá trình của hệ sinh thái . Các chính sách định cư khuyến khích việc di chuyển những lao động hiện đang thất nghiệp lên vùng biên giới . Các khoản nợ đã buộc chính phủ khuyến khích việc sản xuất các hành hoá có thể trao đổi ở nước ngoài . Tại nhiều quốc gia, chính sách năng lượng đã đưa đến nhiều việc làm không hiệu quả, thêm vào đó là ảnh hưởng của ô nhiễm không khí và những nguy cơ biến đổi khí hậu toàn cầu . Sự phân chia sở hữu đất không hợp lý đã không khuyến khích người nông dân đầu tư vào việc sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên sinh vật có giá trị.

     

    Sự tuyệt chủng trong quá khứ

          Tốc độ tuyệt chủng hàng loạt

         Tốc độ tuyệt chủng thay đổi nhiều theo lịch sử sự sống của trái đất. Các nhà cổ sinh vật học phân biệt ra năm thời kỳ “tuyệt chủng hàng loạt”, các giai đoạn tương đối ngắn (1 triệu đến 10 triệu năm), trong thời kỳ đó một phần lớn các loài của hàng loạt các đơn vị phân loại bị tuyệt chủng. Sự tuyệt chủng hàng loạt quan trọng nhất ước lượng khoảng 77 đến 96% số loài xảy ra vào giai đoạn cuối của kỷ Pecmi (250 triệu năm trước đây).

         Ngoài những tuyệt chủng hàng loạt này ra, tốc độ tuyệt chủng là không cố định. Ví dụ, từ 250 triệu năm trước, tốc độ tuyệt chủng tương đối cao đã xảy ra 9 lần, giữa các khoảng thời gian từ 26 đến 28 triệu năm. Hai trong số 9 thời kỳ này đã diễn ra sự tuyệt chủng hàng loạt, một vào cuối kỷ Triat, 220 triệu năm trước, và một vào cuối kỷ Creta, 65 triệu năm trước.

         Đa dạng sinh học toàn cầu gần đạt giá trị cao nhất từ trước tới nay . Ví dụ, đa dạng thực vật, đạt được mức cao nhất kể từ hàng chục nghìn năm trước đây . Cũng tương tự như vậy, đa dạng động vật ở biển đạt đỉnh so với vài triệu năm trước.

         Loài người góp phần vào sự tuyệt chủng các loài

         Sự góp phần quan trọng đầu tiên của con người vào tốc độ tuyệt củng toàn cầu xảy ra và khoảng 15.000 đến 25.000 năm trước đây, việc săn bắn một số lượng lớn thú đã gây ra hoặc góp phần vào sự tuyệt chủng quan trọng ở Bắc, Nam Mỹ và Australia . Ba lục địa này đã mất 74 đến 86% giống thú lớn, thú lớn hơn 44 kg, vào thời điểm này .

         Nguyên nhân của những tuyệt chủng này vẫn là một vấn đề cần bàn luận, thậm chí nếu con người không phải chịu trách nghiệm hoàn toàn, nhưng rõ hàng nghìn năm qua, con người đã gây những biến đổi quan trọng sinh cảnh với rất nhiều những ảnh hưởng được đối với động, thực vật bản địa . Từ ít nhất 50.000 năm, những vụ cháy có chủ ý đã xảy ra ở các thảo nguyên châu Phi . Cách đây ít nhất 5.000 năm, ở châu Âu, và khoảng 4000 năm ở Bắc Mỹ, việc phá rừng và biến đổi các vùng đất tự nhiên thành các bãi chăn gia súc đã xuất hiện tác động đến cấu trúc các quần xã rừng, tạo cơ hội cho các loài cỏ dại và các loài ăn cỏ như bò rừng Bizon mở rộng phạm vi phân bố và gây ra sự tuyệt chủng của các loài địa phương. ở Trung Mỹ, rừng đã thực sự biến mất trên một diện tích lớn từ trước khi người Tây Ban Nha tới .

         Quá trình định cư thời tiền sử trên các lục địa của loài người và những sự hội sinh của họ đã ảnh hưởng căn bản đến tính đa dạng của các loài lục địa . Các hoá thạch chứng minh rằng 98 loài chim đặc hữu đã hiện diện ở các đảo Hawaii 400 năm trước công nguyên khi các đảo này lần đầu tiên được người Polynesi định cư. Khoảng 50 loài trong số đó đã bị tuyệt chủng trước khi những người châu Âu bắt đầu có quan hệ vào năm 1778.

         Phần lớn các chuyên gia đều tin rằng nguyên nhân sự tuyệt chủng này là sự kết hợp giữa việc phá huỷ những vùng rừng rộng nơi đất thấp để canh tác nông nghiệp, gây sự xáo trộn cho việc nhập nội các loài (các loài chuột Polynesi, lợn nhà, chó nhà), săn bắn và ăn thịt. Cũng tương tự như vậy, việc định cư của con người ở New Zealand 1000 năm trước công nguyên, việc nhập nội các loài chó nhà và chuột Polynesi, kết hợp với việc đốt rừng trên diện tích lớn và săn bắn tập trung vào các loài chim lớn, đã dẫn đến sự tuyệt chủng của 13 loài chim Moa (loài chim lớn không biết bay) và 16 loài chim bản địa khác trước khi người châu Âu đặt chân tới .

      bởi Đinh Trí Dũng 08/07/2019
    Like (0) Báo cáo sai phạm

Nếu bạn hỏi, bạn chỉ thu về một câu trả lời.
Nhưng khi bạn suy nghĩ trả lời, bạn sẽ thu về gấp bội!

Lưu ý: Các trường hợp cố tình spam câu trả lời hoặc bị báo xấu trên 5 lần sẽ bị khóa tài khoản

Gửi câu trả lời Hủy
 
NONE
ZUNIA9
 

 

YOMEDIA
AANETWORK
OFF