Tác phẩm Cha con nghĩa nặng của Hồ Biểu Chánh tái hiện tình cảm cha con thiêng liêng của ông Sửu và Tí. Để hiểu hơn về nội dung này, mời các em cùng tham khảo tài liệu văn mẫu Phân tích tình cha con trong văn bản Cha con nghĩa nặng của Hồ Biểu Chánh dưới đây! Chúc các em học tập thật tốt!
1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý
2. Dàn bài chi tiết
2.1. Mở bài
- Giới thiệu tình cha con trong văn bản Cha con nghĩa nặng của Hồ Biểu Chánh.
2.2. Thân bài
a. Giới thiệu khái quát nội dung tác phẩm
- Sửu vô tình trở thành kẻ giết vợ nên phải đi trốn
- Sau nhiều năm trốn tránh, ông cố gắng lén về thăm con
b. Tình phụ tử sâu sắc
- Nỗi lòng và tình thương con của ông Sửu:
+ Chấp nhận ra đi biệt xứ, chấp nhận cả cái chết vì con
+ Thương con và muốn ra đi để gìn giữ hạnh phúc cho con
- Tình yêu và tình cảm dành cho cha của Tí:
+ Chạy đuổi theo và níu giữ cha ở lại
+ An ủi và thuyết phục cha cho mình được chăm sóc
2.3. Kết bài
- Khẳng định giá trị đạo lý về tình cảm cha con trong đoạn trích: Chính những mâu thuẫn ấy đã góp phần thể hiện sâu sắc tình cảm cha con sâu nặng, cha sẵn sàng hy sinh vì hạnh phúc của con, còn con sẵn sàng gạt đi hạnh phúc riêng tư để chăm sóc và báo hiếu cho cha.
3. Bài văn mẫu
Đề bài: Phân tích tình cha con trong văn bản Cha con nghĩa nặng của Hồ Biểu Chánh
Gợi ý làm bài
3.1. Bài văn mẫu số 1
Hồ Biểu Chánh là một nhà văn rất quen thuộc của nhân dân Nam bộ. Ông là tác giả của hơn 60 cuốn tiểu thuyết, ông được xem là một trong số ít người tiên phong đặt nền móng cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Tiểu thuyết của ông chẳng những đã phản ánh một phong cách phong phú và chân thật cuộc sống của nhân dân Nam bộ mà còn thể hiện đạo đức tốt đẹp của con người giữa cuộc đời. Tiểu thuyết Cha con nghĩa nặng đã nêu bật tình cảm sâu sắc xúc động của nhân vật cha Sửu và nhân vật con Tí mà đoạn hiện in trong sách Văn 11 là một trường hợp tiêu biểu.
Trước hết ta thấy đoạn trích hiện lên trước mặt người đọc hình ảnh của ba nhân vật, song điều đáng quan tâm thì chỉ có hai (Sửu và Tí). Mặc dù chỉ qua một đoạn trích nhưng số phận của nhân vật Sửu hiện lên khá đầy đủ. Trần Văn Sửu sống trong hoàn cảnh thật éo le. Do vô tình, ông mang tiếng là người giết vợ. Sợ pháp luật săn đuổi trừng trị, Trần Văn Sửu phải sống chui lủi, đến tên tuổi tung tích của mình cũng phải tìm cách xóa sạch. Trên mười năm trời, Trần Văn Sửu phải chịu đau khổ về thể xác, tâm hồn, chịu cảnh cắn rứt dằn vặt của lương tâm. Những điều này được thể hiện qua lời nói của nhân vật khi gặp lại bố vợ và đứa con trai yêu quý của mình. Tác giả chưa miêu tả chiều sâu của nội tâm nhân vật chủ yếu dùng hành động và lời nói để thể hiện phẩm chất đạo đức của Trần Văn Sửu.
Trong hoàn cảnh cuộc sống không đáng sống, thậm chí Trần Văn Sửu đã sống những ngày không ra cuộc sống của con người nhưng ông đã không chết được vì lòng thương con, vì sự cắn rứt của lương tâm. Ông vốn là người lương thiện, hiền lành chất phác, thương vợ, thương con mà vợ ông lại là con người đàng điếm lăng loàn. Ông sợ là khi mình chết đi mà các con ông không hiểu được cha của nó một cách đúng đắn, chúng sẽ sống trong đau khổ vì là con của người cha tàn bạo. Rõ ràng Trần Văn Sửu có cõi tâm cao thượng chỉ muốn riêng mình nhận lấy nỗi khổ đau cùng với người vợ bất hạnh, không muốn những đứa con ngây thơ trong trắng của mình phải chịu vạ lây, không muốn cho tâm hồn chúng vẩn lên những nỗi đau u uất. Thì ra những năm tháng sống đau khổ về thể xác, về tâm hồn, ông Sửu đã không chết, vì thương con, vì ý muốn tốt đẹp cho con.
Ông Sửu bươn bả về làng tìm gặp lại những đứa con sau bao năm tháng chờ đợi con khôn lớn để có thể giãi bày cùng chúng. Đây là lúc ông có thể thực hiện điều tâm niệm ấy. Gặp lại bố vợ, ông Sửu chấp nhận tất cả những lời mắng nhiếc, sỉ nhục để đạt được mục đích của mình. Trần Văn Sửu đã nói với cha vợ những lời chứa chan nước mắt đau khổ, làm hiện lên nguyên vẹn tấm lòng thương con vô hạn của người cha. Nỗi nhớ thương con cháy lòng khiến ông trở thành người kiên quyết: “xăm xăm bước đi về cửa”, “lột nón xuống mà cầm trên tay”. Mặt khác cũng chính vì lòng thương con, khao khát được gặp mặt con khiến ông trở thành người mềm yếu một cách chân thực: “… cúi mặt ngó xuống đất, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng… Trần Văn Sửu nói tới đó rồi khóc rấm rứt”. Trần Văn Sửu than rằng: “Mười một năm nay cực khổ hết sức, song ráng mà sống, là vì trông mong có ngày thấy được mặt con. Nay về đến đây, chưa gặp con được mà phải đi, thì làm sao được, trời đất ơi!”. Chỉ bằng một lời than thế thôi mà cũng gợi ra trước mắt ta cuộc đời khổ ải của Trần Văn Sửu và nỗi lòng yêu thương con da diết, muốn gặp mặt con dù một chút mà cũng không được. Nỗi nhớ thương con cháy lòng khiến Sửu không kiềm giữ được đã thốt thành lời: (3 lần với Hương Thị Tào):
“… Con thương sắp nhỏ quá”
“… Con thương nhớ chúng nó quá tía ơi!”
“… Con nhớ sắp nhỏ quá”.
Chính tấm lòng yêu thương con của ông Sửu đã lay thức và làm bừng tỉnh những tình cảm tốt lành trong Hương Thị Tào. Từ chỗ ông nhiếc mắng ban đầu “Mày thiệt là đồ khốn nạn lắm. Đi liền bây giờ đi… đừng có về đây nữa” đến chỗ ông già cũng nghẹn ngào xúc động cùng Sửu: “Hương Thị Tào nghe mấy lời thảm thiết ấy thì cảm động quá, chịu không nổi, nên ông cũng khóc”. Sau khi nghe Hương Thị Tào cho biết là các con vẫn thương mình, Trần Văn Sửu chỉ muốn được nhìn thấy mặt chúng dù phải dấu mình dưới dạng người Thổ. Chi tiết đó thể hiện rất rõ nỗi lòng thương con của người cha bất hạnh. Sửu trở về nhà khao khát gặp con bao nhiêu thì sẵn sàng lặng lẽ ra đi bấy nhiêu khi biết được các con đã hiểu đúng mình và chúng sắp sửa được sống sung sướng hạnh phúc. Vì sợ liên lụy đến con, ông Sửu sẵn sàng từ bỏ khát vọng cháy bỏng trong lòng mình là được gặp lại chúng. Trần Văn Sửu vui lòng “lãnh các sự đau đớn cực khổ, buồn rầu đó, miễn là con được giàu có, sung sướng thì thôi”. Vĩnh biệt người bố vợ hiền từ nhân ái, ông Sửu ra đi quyết tâm không về nữa.
Bằng một đoạn văn đọc thoại nội tâm: “Bây giờ mình còn sống nữa làm gì! Bấy lâu mình lăn lóc chịu cực khổ mà sống, ấy là vì mình thương con, mình sợ nó không hiểu việc xưa rồi nó trở oán mình, mình sợ nó bơ vơ, đói rách, mà tội nghiệp thân nó. Bây giờ mình biết rõ nó thương mình, nó còn kính trọng mình, mà nó lại gần được giàu có sung sướng hết thảy nữa, vậy thì mình nên chết rồi, chết mới quên hết việc cũ được, chết đặng hết buồn rầu, cực khổ nữa”, một đoạn văn rất mới so với văn học trung đại, Hồ Biểu Chánh đã tái hiện được vẻ đẹp tâm hồn của người cha: Sửu trở về cũng là vì muốn gặp được con, lầm lũi ra đi vĩnh viễn cũng là vì con. Hai thái cực đó làm hiện lên tấm lòng nhân ái của người cha bất hạnh một tình huống éo le. Và bây giờ ông muốn chết đi, nên chết để “quên hết việc cũ”, “hết buồn rầu, cực khổ”, chết để khỏi liên lụy đến con!
Tiếp đó, Hồ Biểu Chánh đã để cho nhân vật hồi tưởng lại quá khứ sống vì con, chết vì con của đời mình (“Anh ta nghĩ như vậy rồi nhắm mắt lại”…). Trong trí tưởng tượng của ông Sửu, hình ảnh của người vợ khi chết như là nỗi ám ảnh về tội lỗi dai dẳng, giày vò tâm can ông. Điều đó làm ông muốn chết và quên đi chuyện cũ để hết nỗi đau khổ. Mặt khác hình ảnh thơ ngây của những đứa con ngoan ngoãn làm cho ông đau đớn trong lòng, trong tận cùng của nỗi đau ấy, cái đẹp của lòng lương thiện và tình thương con cũng ngời sáng. Nhân vật Trần Văn Sửu trong đoạn trích Cha con nghĩa nặng như là hiện thân của những phẩm chất đạo đức truyền thống giàu tính nhân bản. Con người hiền lành lương thiện ấy đã phải sống một cuộc đời bất hạnh, song lòng lương thiện, đức vị tha bao dung, tình thương con của người cha đó vừa có tác dụng truyền cảm vừa có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Câu chuyện được kết cấu theo trật tự thời gian, nhân vật được khắc họa chủ yếu qua hành trang và lời nói, mục đích sáng tác nhằm giáo huấn, tuyên truyền đạo đức. Đó là những điều chúng ta gặp trong văn học dân gian và văn học trung đại. Nhìn chung cuộc gặp gỡ giữa Sửu và bố vợ là một trường đoạn bộc lộ tâm trạng.
Đó là nỗi khát khao tình cảm của một người cha đối với con, là sự giãi bày những uẩn khúc đã giấu trong lòng suốt 11 năm trời. Sở dĩ 11 năm qua Trần Văn Sửu chưa muốn kết thúc cuộc đời mình chính là mong có phút gặp gỡ cùng con. Nhưng chưa gặp con là đã gặp lại người bố vợ. Ngôn ngữ đối thoại ở đây đầy tâm trạng và rất xúc động đồng thời mang sắc thái ngôn ngữ Nam bộ đặc sắc. Sự phát triển tính cách nhân vật ở đoạn này dựa trên quy luật tâm lí và hoàn toàn hợp lí. Đó là một thành công trong xây dựng nội tâm nhân vật của tác giả. Tác giả khéo tạo tình huống để nhân vật có thể bộc lộ nội tâm của mình.
Bên cạnh tình cảm của người cha đối với con thật sâu sắc, là tấm lòng hiếu nghĩa của đứa con khi gặp lại cha sau 11 năm xa cách. Dường như 11 năm trời hình bóng người cha không thể nào phai mờ trong đứa con hiếu nghĩa. 11 năm trôi qua. Tí (con) phải sống thiếu tình thương yêu của người cha đối với mình, chính vì thế khi gặp lại người cha, tình phụ tử trào dâng choán ngập hết tâm hồn Tí. Lúc này đây Tí chỉ biết có mình cha, khao khát được sống trong tình thương yêu của người cha.
Tình nghĩa sâu nặng giữa hai cha con Tí đem đến cho ta niềm xúc động thật thấm thía. Bởi tình nghĩa đó không hiện diện ở một phía (Sửu) mà đến từ hai phía như một sự gặp gỡ vừa tất yếu vừa thiêng liêng. Trước hết tình thương cha, hiểu cha, muốn gắn bó với cha khiến cho Tí trở nên đĩnh đạc và chủ động. Nó đĩnh đạc và chủ động hỏi ông ngoại: “Cha tôi đi đâu rồi ông ngoại?”. Đĩnh đạc và chủ động chạy theo cha khi Sửu bỏ đi. Nó đâm đầu chạy riết theo, tiếng nói cất thêm từ niềm sâu thẳm của tình nghĩa phụ tử sao mà xúc động: “Ai đó? Phải cha đó không, cha?”. Trong khi Trần Văn Sửu muốn tự tử kết thúc cuộc đời đau khổ của mình thì Tí đến với tấm lòng yêu cha chân thành, đã cứu cha trở về với cuộc sống.
Cảnh cha con gặp nhau thật cảm động, sinh động và giản dị: “Thằng Tí chạy riết lại nắm lấy tay cha nó, dòm sát trong mặt rồi nhìn mà ôm cứng trong lòng mà nói: “Cha ôi! Cha! Cha chạy đi đâu giữ vậy”. Lúc ấy Trần Văn Sửu mất trí khôn, hết nghị lực, máu trong tim chảy thình thịch, nước trong con mắt tuôn ròng ròng, đứng xui xị xui lơ, không nói được một tiếng chi hết”. Khi gặp được cha rồi, Tí nhất quyết không rời cha nửa bước. Cậu ta kiên quyết: cha đi đâu con theo đó”, “Hễ cha đi thì con đi theo”, “Đi theo đặng mà làm mà nuôi cha; chừng nào cha chết rồi con sẽ về”. Mặc dù đã mười một năm không gặp cha, không được cha âu yếm, nuôi nấng, nhưng khi được gặp, mối tình phụ tử lập tức tràn đầy. Như vậy, Trần Văn Sửu trở về cũng vì con mà ra đi cũng vì con, cho nên Tí cũng vì cha mà đi theo cha để chăm sóc cha quên đi cuộc sống hiện tại mình… Ấy chính là cái “nghĩa nặng” của tình cha con thể hiện ở đây.
3.2. Bài văn mẫu số 2
Hồ Biểu Chánh là một gương mặt nhà văn khá tiêu biểu ở khu vực Nam Bộ, đúng như con người Nam Bộ, Hồ Biểu chánh thể hiện được những nét đặc trưng của vùng miền, đó chính là cái khẳng khái, bộc trực trong tính cách, cái giản dị, mộc mạc trong cách sống, lối sống. Vì vậy mà đọc các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh ta cảm nhận được cái gì đó rất chân thật, bởi đó đều là những câu chuyện được bắt nguồn từ thực tế cuộc sống, lại được thổi lồng hơi thở mộc mạc, chất phác của phong cách nhà thơ. Nhà văn Hồ Biểu Chánh có rất nhiều tác phẩm viết về cuộc sống của những con người Nam Bộ, một trong số đó là tác phẩm “Cha con nghĩa nặng”.
“Cha con nghĩa nặng” là một trong những tác phẩm tiêu biểu, nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hồ Biểu Chánh, trong đó đoạn trích chúng ta tìm hiểu dưới đây là một trích đoạn thuộc chương IX, kể về tình cảm cha con sâu lặng, đầy cảm động của hai nhân vật, đó là nhân vật người cha Trần Văn Sửu và người con tên Tí. Vốn dĩ gia đình của Trần Văn Sửu là một gia đình hạnh phúc, tuy không giàu có nhưng có vợ chồng chăm chỉ làm lụng và ba đứa con ngoan ngoãn: Sung, Tí và Quyên. Nhưng biến cố bất ngờ đã xảy đến với gia đình của Sửu, khi người vợ là Thị Lựu đã thay lòng đổi dạ, đánh mất phẩm tiết phản bội lại chồng, gian díu với người đàn ông khác.
Đỉnh cao của bi kịch gia đình, đó là khi Trần Văn Sửu đã bắt gặp cảnh Thị Lựu cùng người đàn ông ấy gian díu ngay trong ngôi nhà của mình, vì tính tình vốn bộc trực, thẳng thắn nên Sửu đã không kiềm chế nổi sự tức giận, càng tức giận hơn khi Thị Lựu không những không có biểu hiện ăn năn, hối lỗi mà còn ăn nói hỗn hào, thậm chí còn ngăn cản không cho Trần Văn Sửu đuổi theo, mở lối cho tình nhân tẩu thoát, trong cơn tức giận, Trần Văn Sửu đã có giằng co với vợ, và thật không may, vì lỡ tay mà Thị Lựu đã ngã lăn xuống phản, chết ngay. Vì vợ chết nên Trần Văn Sửu đứng trước nguy cơ bị bắt giam, vì những đứa con nhỏ dại nên người đàn ông ấy đã bỏ trốn biệt tích.
Tha phương, ẩn náu nơi đất khách, ba đứa trẻ tội nghiệp, con của Trần Văn Sửu được cưu mang, chăm sóc bởi người ông ngoại, tuy sống tha phương nhưng tâm trí và tình cảm của Trần Văn Sửu chưa bao giờ thôi mong ngóng, hướng về những người con. Ta có thể thấy người đàn ông ấy bỏ trốn không phải là một hành động hèn nhát, chối bỏ trách nhiệm cho những sai lầm của mình mà vì một mục đích cao cả hơn, đó là vì những đứa con, vì nếu như bị bắt giam, chịu những hình phạt thì những đứa con của anh ta sẽ ra sao, sẽ đói khổ, cơ cực, đáng thương biết mấy. Và sự trốn chạy suốt mười mấy năm ròng cũng là mong có ngày được thấy mặt con “Mười một năm nay cực khổ hết sức, song ráng mà sống, là vì trông mong có ngày được thấy mặt con..”, sợ con “bơ vơ, đói rách, mà tội nghiệp nó”.
Cũng là sợ những đứa con không hiểu chuyện mà oán trách mình “…bấy lâu nay sống lăn lóc chịu cực khổ mà sống, ấy là vì thương con, mình sợ nó không hiểu việc xưa rồi oán mình…”. Tình cảm cha con sâu nặng được thể hiện ngay ra trong một tình huống, đó chính là khi Trần Văn Sửu vì quá nhớ con mà liều lĩnh quay trở lại quê xưa, lén lút muốn quan sát cuộc sống hiện thời của những đứa con. Dù rất yêu thương, nỗi nhớ nhung chưa bao giờ thôi da diết, nhưng Trần Văn Sửu cũng chỉ mong có thể nhìn thấy mặt con, cho thỏa thuê nỗi nhớ, còn gặp mặt, ôm ấp những đứa con yêu dấu là điều quá sức xa xỉ với anh ta. Xa xỉ không bởi là không thực hiện được, bởi Trần Văn Sửu đã đón nhận mọi sự trách móc của người bố vợ khi vô tình gây ra cái chết cho Thị Lựu và cũng được người đàn ông ấy cho phép gặp lại những đứa con, nhưng từ ý thức của người cha.
Trần Văn Sửu không làm vậy mà lại đau khổ lựa chọn cho mình một giải thoát “…bây giờ mình biết rõ nó thương mình, nó còn kính trọng mình, mà nó lại gần được giàu có sung sướng hết thảy nữa, vậy thì nên chết rồi, chết mới quên được hết việc cũ được, chết đặng hết buồn rầu cực khổ nữa”. Tình tiết xúc động của tình cha con phải kể đến cuộc gặp mặt, đối thoại của Trần Văn Sửu với người con trai của mình- Tí. Vì khi về thăm con, dù đã rất kín đáo, bí mật không để cho những đứa con biết về sự xuất hiện của mình, và sau khi nhìn thấy các con thì người đàn ông ấy cũng lập tức rời đi. Nhưng, nhận thấy bóng dáng quen thuộc của người cha, Tí đã theo chân bóng dáng quen thuộc ấy đến tận cây cầu ven sông. Và cũng nhờ vậy mà có thể ngăn cản được Trần Văn Sửu khi có ý định nhảy xuống sông tự tử.
Chi tiết gặp mặt, tiếng gọi của Tí khiến cho người đọc cảm thấy thổn thức, vì nó quá đỗi chân thành, đó là tiếng gọi của trái tim, của những cảm xúc dồn nén trong hơn chục năm qua “Cha ôi! Cha! Cha chạy đi đâu dữ vậy”, qua những câu nói dồn dập của Tí ta có thể liên tưởng đến việc Tí đã đuổi theo cha từ rất lâu, và khi nhìn thấy cha trên cầu thì không tránh khỏi sự xúc động, hơi thở có phần dồn dập. Bất ngờ gặp lại con, Trần Văn Sửu đã sững người lại, “..hết nghị lực, máu trong tim chảy thình thịch, nước mắt tuôn ròng ròng…đứng xụi lơ, không nói được một tiếng chi hết”. Dường như khi đã quá xúc động thì lời nói, hành động đã nhường chỗ lại cho sự tĩnh lặng. Tĩnh lặng không phải không có gì để nói mà im lặng để cảm nhận, im lặng bởi sự dạt dào của cảm xúc.
Tình cảm của Tí dành cho cha cũng không hề thay đổi, dù cha chính là người gây ra cái chết cho mẹ, Tí không những không hận thù cha mà thời gian càng làm cho tình cảm dành cho cha thêm sâu nặng. Gặp được cha sau gần chục năm xa cách, Tí không nghe lời cha là quay trở về mà một mực muốn theo cha “ …Con không về được. Bấy lâu nay con tưởng cha chết rồi, té ra cha còn sống. Vậy thì bây giờ cha đi đâu con đi đó”, những câu nói có phần ngô nghê nhưng lại là những lời hết sức chân thật, xuất phát từ tấm lòng của người con hiếu nghĩa. Khi sự việc đau lòng xảy ra, tuy còn rất nhỏ nhưng Tí lại không bị những lời đàm tiếu của láng giềng làm ảnh hưởng mà oán trách bố, ngược lại còn nhìn nhận khá thấu đáo về chân tướng của sự thật.
Tí biết rằng má là người sai trước, người cha tội nghiệp của Tí không hề có lỗi gì cả, trốn chạy cả chục năm nay là quá đủ cho mọi sai lầm. Khi cha khuyên Tí về nhà lo cưới vợ thì Tí đã nói ngay “…Cưới vợ mà làm gì. Cưới vợ đặng báo hại như má báo hại cha hồi trước đó sao”, tuy là một người con hiếu nghĩa nhưng Tí cũng đã có những suy nghĩ sai lệch về má của mình, bị ám ảnh bởi những chuyện trong quá khứ. Trước những suy nghĩ tiêu cực của con, Trần Văn Sửu không những không tàn đồng vì Tí bênh vực mình mà còn rất nghiêm khắc dạy dỗ con, vì Thị Lựu tuy có phản bội mình, người gây ra sự đổ vỡ của gia đình nhưng với cương vị, tư cách của một người mẹ thì chị ta hoàn toàn nhận được sự yêu thương, tôn trọng của những người con “Con không nên phiền trách má con. Má có quấy là quấy với cha, chứ không quấy với con”.
Như vậy, qua trích đoạn “Cha con sâu nặng” tác giả Hồ Biểu Chánh đã thể hiện một cách xuất sắc tình cảm cha con của Trần Văn Sửu và Tí, bởi nó quá đỗi chân thực, sống động, qua từng tình tiết của trích đoạn, người đọc còn cảm nhận được tình cảm của hai cha con cho nhau, vì vậy mà không khỏi cảm động, thương cảm trước tình cảm ấy. Tình cha con thể hiện ở tình yêu, trách nhiệm của Trần Văn Sửu dành cho con, vì con mà chịu khổ, vì con mà sẵn sàng tìm đến cái chết để giải thoát, còn Tí lại là một người con hiếu nghĩa, bởi dù nghe bao nhiêu lời đồn đoán rằng cha đã mất nhưng trong tâm trí thì người cha ấy mãi tồn tại, chẳng vậy mà thấp thoáng thấy bóng cha mà Tí đã đuổi theo, ngăn không cho cha làm việc dại dột, dùng tình cảm để thuyết phục cha cho mình đi theo để chăm dưỡng, báo hiếu cho cha.
----------Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp-----------