Bài thơ Hầu trời là câu chuyện hầu trời của một thi sĩ với lối kể chuyện tự nhiên, giọng điệu say đắm, kết hợp khéo léo giữa cảm hứng lãng mạn và hiện thực. Để hiểu hơn về bài thơ này, Học247 mời các em cùng tham khảo bài văn mẫu Bình giảng về bài thơ Hầu trời của Tản Đà chi tiết dưới đây nhé! Ngoài ra, để làm phong phú thêm kiến thức cho bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài giảng Hầu trời.
1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý
2. Dàn bài chi tiết
a. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Tản Đà và bài thơ Hầu trời.
b. Thân bài:
* Hoàn cảnh lên hầu trời
- Thời gian: canh ba nửa đêm.
- Nguyên nhân: nằm buồn ngồi dậy đun nước uống, uống xong nằm ngâm văn, ra sân chơi trăng, tiếng ngâm thấu đến trời xanh, Trời phái hai cô tiên nữ xuống rước lên.
* Cảnh đẹp chốn tiên giới
- Cửa son đỏ chót, oai rực rỡ.
- Khắp nơi mây mù bao phủ, thoắt cái đã đến cổng trời.
- Các vị tiên đã ngồi chầu tĩnh lặng từ trước.
- Chiếc ghế ngồi nơi tiên giới cũng vô cùng đẹp (Ghế bành như tuyết, vân như mây).
* Cảnh hầu trời
- Tác giả đọc hết văn vần sang văn xuôi, văn thuyết lí, văn chơi.
- Văn chương của nhân vật được Trời tấm tắc khen hay, được các tiên nữ và các vị tiên khác gật gù nể phục, vỗ tay trước tài năng của nhân vật.
- Nhân vật bẩm với Trời về “khố tài sản văn chương” khổng lồ mà mình có vô cùng phong phú, đa dạng và đặc sắc.
- Trước sự chân thành và hài hước của nhân vật, Trời cũng bật cười và đề xuất nhân vật bán văn chương của mình ở chợ trời.
- Trời không ngừng khen văn chương của nhân vật: văn thật tuyệt, văn trần được thế chắc có ít, lời văn trau chuốt như sao băng, khí văn mạnh mẽ như mây chuyển, êm đềm như gió, tinh khiết như sương,…
- Trời gặng hỏi tên tuổi, quê quán của nhân vật, khi nhân vật tâu quê quán của mình, Trời sai thiên tào lấy sổ xét thì thấy nhân vật bị đày xuống hạ giới vì tội ngông. Trời thanh minh rằng chỉ là do Trời sai xuống làm việc “thiên lương” cho nhân loại.
* Hoàn cảnh của nhân vật trữ tình
- Vô cùng nghèo khó: thước đất cũng không có, mướn một cửa hàng ở phố phường để bán văn chương nhưng lại không bán được vì văn chương ở hạ giới rẻ như bèo, kiếm được ít mà tiêu thì nhiều, làm quanh năm không đủ tiêu, việc tiếp thu ngày càng kém vì tuổi càng cao,…
- Trời động viên, an ủi nhân vật về làm ăn vì Trời thấu hết những nỗi khổ đó.
* Cảnh chia tay
- Vâng lời Trời dạy, nhân vật trữ tình quay trở về nhân gian với tâm trạng tiếc nuối, buồn bã.
- Về lại trần gian trong đêm khuya thanh vắng, nhân vật cảm thấy tiếc nuối vì cả năm sao chỉ có một đêm hầu trời.
c. Kết bài:
- Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật và ý nghĩa của tác phẩm.
3. Bài văn mẫu
Đề bài: Em hãy viết bài văn bình giảng về bài thơ Hầu trời của Tản Đà.
GỢI Ý LÀM BÀI
3.1. Bài văn mẫu số 1
Tản Đà là một trong những nhà thơ lớn vào những năm đầu thế kỷ XX. Những đóng góp của ông cho nền văn chương Việt Nam với những tác phẩm đặc sắc làm xao động cả giới văn đàn. Tản Đà được ví như là một cầu nối giữa hai thế kỷ và là nhân tố tiêu biểu đặt nền móng cho sự phát triển của dòng thơ mới.
Đọc các tác phẩm thơ của Tản Đà chúng ta sẽ thấy được chất từ giản dị trong câu thơ, thấy được một tâm hồn lãng mạn nhưng cũng đầy phong cách. Thơ của Tản Đà rất độc đáo nhưng vẫn giữ được cốt cách của thơ ca dân tộc. Ngày hôm nay chúng ta hãy cùng nhau phân tích bài thơ “Hầu Trời” để thấy được cái tôi của nhà thơ Tản Đà.
Phân tích bài thơ “Hầu Trời” để thấy được cái tôi của nhà thơ Tản Đà Với lối thơ thất ngôn trường thiên tự do và phóng khoáng. Cộng với chất tự sự các yếu tố trong tình huống, nhân vật hay lời kể đã tạo nên một tác phẩm rất đặc biệt. Tác phẩm “Hầu Trời” chính là một sự hư cấu tưởng tượng của chính tác giả.
Ngay những câu đầu bài thơ Tản Đà để lại một ấn tượng vô cùng đậm nét với cách dẫn dắt độc đáo của mình:
“Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể
Thật được lên tiên - sướng lạ lùng”
Vốn dĩ câu chuyện này là hoang đường nhưng với cách kể của mình, tác giả đã khiến người ta phải tin đó là thật, thật một cách tự nhiên không hề gượng gạo. Rõ ràng câu thơ mở đầu là một câu hỏi, chính tác giả cũng đang không rõ thực hư trong câu chuyện này nhưng ba câu thơ tiếp với việc lặp lại ba lần chữ “thật” như một lời khẳng định với bạn đọc về sự thật này. Sau khi khẳng định sự thật về việc được lên trời, Tản Đà bắt đầu những vần thơ để lý giải lý do của nó. Câu chuyện bắt đầu từ một đêm khuya vắng, nhà thơ ngồi dậy đun nước rồi ngâm nga những câu thơ “vang cả ngân hà” khiến ông Trời “mất ngủ”. Câu chuyện có vẻ khó tin nhưng bằng cách kể hóm hỉnh, Tản Đà đã khiến người đọc càng them tò mò về những gì diễn ra sau đó.
Tiếp đó, nhà thơ bắt đầu kể diễn biến của buổi “hầu trời” một cách rất tự nhiên. Đầu tiên, tuân lệnh của Trời, thi sĩ đã đọc thơ của mình cho Trời và các chư tiên nghe:
“Truyền cho văn sĩ đọc văn nghe
Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc”.
Đối với một thi sĩ, thơ ca không chỉ là sự yêu thích mà hơn cả thế nó là đam mê. Thơ ca khiến thi sĩ trở nên thăng hoa trong cảm xúc và hứng thú đến lạ thường:
“Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơn”.
Đối với niềm hăng say này của thi sĩ, thái độ của người nghe cũng vô cùng chăm chú, tập trung thậm chí là tán thưởng, biểu dương: “Hằng Nga, Chức nữ chau đôi mày”; “Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng”… Các chư tiên còn vô cùng phấn khích, đón nhận khi thi sĩ kể về các tập thơ của mình: “Anh gánh lên đây bán chợ trời”.
Trong thơ ca, cái tôi là một vấn đề rất hay được mọi người chú ý đến. Thơ ca phải có cái tôi thì mới làm nên vẻ ấn tượng. Và ở những câu thơ tiếp theo, Tản Đà đã thể hiện rất rõ cái tôi của mình:
“Trời lại phê cho: “văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít
Nhời văn chau chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!”
Bằng việc mượn lời Trời tác giả đã khéo léo ca ngợi văn thơ của mình. Và người ta gọi đây là một hiện tượng chưa từng có trong văn chương. Điều này không chỉ chứng tỏ thi sĩ rất tự tin vào tài năng của mình mà còn muốn tự khẳng định tài năng, nét tài hoa ấy. Khi đặt những câu chữ của mình sánh ngang với vẻ đẹp của thiên nhiên trời đất như sao băng, mây, gió, mưa, tuyết… Tản Đà đã thể hiện rất rõ sự kiêu hãnh về cái hay cái đẹp trong văn chương của mình.
Sau khi nói về tài năng văn chương của mình, Tản Đà hướng ngòi bút của mình kể về cuộc sống của tầng lớp văn nghệ sĩ thời ấy:
“- Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có
…
Trời lại sai con việc nặng quá
Biết làm có được mà dám theo”
Bằng những nét vẽ tả thực, đoạn thơ đã phản ánh một cách chân thực cuộc sống khốn cùng của văn nghệ sĩ cũng như sự hỗn loạn của văn chương lúc bấy giờ. Trái ngược hoàn toàn với những cảm xúc hưng phấn lúc trước, đoạn thơ này mang một giọng ngậm ngùi, chua xót đến đáng thương. Vốn dĩ câu chuyện hầu trời là một câu chuyện hư cấu và dường như nhà thơ đang tự an ủi chính mình, đang hy vọng về một điều gì đó tốt đẹp hơn cho thế hệ của mình:
“Rằng: Con không nói Trời đã biết
Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết
Thôi con cứ về mà làm ăn
Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết”
Sau lời dặn dò của Trơi, cuộc chia tay giữa thi sĩ và các chư tiên diễn ra trong xúc động:
“Hai hàng lụy biệt giọt sương rơi
Trông xuống trần gian vạn dặm khơi
Thiên tiên ở lại, trích tiên xuống
Theo đường không khí về trần ai”
Những gì đã diễn ra đẹp đến mức, khi thi sĩ bừng tỉnh, nhận ra đó chỉ là một giấc mộng, nhà thơ đã không khỏi tiếc nuối:
“Một năm ba trăm sáu mươi đêm
Sao được mỗi đếm lên hầu Trời”.
Những câu thơ đã khép lại bài thơ, khép lại một câu chuyện nhưng dư âm mà nó để lại thì vẫn còn đó. Dù chỉ là tưởng tượng nhưng lối viết tự nhiên, cách xây dựng câu chuyện có đầy đủ cốt truyện, nhân vật… đã đem đến sự gần gũi, mới lạ cho người đọc.
Người ta nói, “Hầu trời” không chỉ là một câu chuyện hóm hỉnh, vui tươi mà còn gửi gắm những triết lý về cái tôi thơ ca đến cho những nhà văn Việt Nam. Với tác phẩm này, Tản Đà đã thực sự mang đến một làn gió mới cho thơ ca, xứng đáng với danh hiệu người đặt nền móng cho phong trào Thơ mới.
3.2. Bài văn mẫu số 2
Tản Đà (1889-1939), tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, là một nhà thơ, nhà văn nhà viết kịch và đồng thời là một trong những người dịch thơ cổ hay nhất của Việt Nam ta (đặc biệt là thơ Đường). Trên văn đàn nước ta đầu thế kỷ XX, sự đô hộ của thực dân Pháp, cùng với sự bất lực của triều đình phong kiến trước thời cuộc, đã khiến lịch sử dân tộc có nhiều biến động dữ dội, không chỉ về kinh tế chính trị mà theo đó còn là cả văn hóa. Nho học đã không còn chỗ đứng, các thể loại thơ cổ, ý nhiều lời ít trở nên cũ rích, lạc hậu và không còn hợp thời. Điều đó thôi thúc sự nổi lên và nở rộ của một số ngòi bút biết cách tân và nhạy cảm trước thời cuộc, một trong số đó chính là Tản Đà. Nếu Hoài Thanh, Hoài Chân thường nhắc đến Thề non nước hay Tống biệt như là những bài thơ tiêu biểu của Tản Đà, bởi nó có mang một chút lòng yêu nước mờ mờ ẩn hiện, chủ đề chuyên chính nhất trong văn học trung đại và văn học mọi thời đại. Nhưng thực tế xem xét kỹ ta mới thấy được, để đánh giá Tản Đà là nhà thơ nổi lên như một ngôi sao sáng cuối thời trung đại, với tài năng và khả năng sáng tác dồi dào, đồng thời là “dấu gạch nối giữa hai thời kỳ văn học cổ điển và hiện đại” - người manh nha cho một thời kỳ thơ Mới thịnh vượng gần mười năm và lưu lại giá trị cả trăm năm. Thì có lẽ không nên kể đến những bài thơ trên mà cái tên đáng được nhắc tới phải là Hầu Trời - tác phẩm chứa đựng tất cả những gì mới mẻ, khác biệt trong phong cách và hình thức thơ của Tản Đà buổi giao thời.
Hầu Trời được Xuân Diệu dành cho những lời nhận xét rất đắt rằng đây là một trong số những bài thơ đứng lại được với thời gian, ngạo với năm tháng. Tác phẩm được đưa vào sách xuất bản lần đầu trong tập Còn chơi (1921) với tổng số câu là 120, sau in lại trong Tuyển tập Tản Đà thì bị cắt mất 6 câu còn 114 câu.
Mở đầu tác phẩm thi sĩ vào chuyện độc đáo và rất có duyên bằng bốn câu thơ:
“Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ màng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên-sướng lạ lùng.
Tác giả là chủ thể của câu chuyện nhưng lại không biết “có hay không”, lại càng khiến cho người đọc hoang mang bởi hai từ phủ định “chẳng”, “không” tạo mối nghi vấn, gợi trí tò mò, bán tín bán nghi nhưng thi sĩ lại khẳng định ngay là câu chuyện có thật bằng bốn từ “thật” được lặp đi lặp lại để củng cố lòng tin độc giả vào sự việc mà nhà thơ sắp kể tạo sự hấp dẫn về việc “Thật được lên tiên-sướng lạ lùng”. Đúng như lời bình của Xuân Diệu “Vào đột ngột câu đầu cũng ra vẻ đặt vấn đề cho nó khách quan, nghi ngờ theo khoa học, để ba câu sau hoàn toàn là khẳng định, ăn hiếp người ta”.
Tiếp đến nhà thơ trình bày lí do, thời gian, không gian mà mình được “lên tiên” là do nguyên lúc canh ba nằm không ngủ được nên dậy uống nước ngâm văn vẫn chưa thể chợp mắt nên ra ngoài “chơi trăng”. Bỗng có hai nàng tiên xuống nói rằng:
“Trời nghe hạ giới ai ngâm nga
...Có hay lên đọc, Trời nghe qua”.
Đó chính là lí do vì sao thi sĩ được ngâm thơ ở chốn “thiên môn đế khuyết”. Với tất cả cảm hứng, tài năng thi nhân Tản Đà đã ngâm thơ cho Trời và các chư tiên nghe với sự đắc ý và cao hứng đến tột bậc.
Bên cạnh đó Tản Đà cũng rất hào hứng kể về những thành quả trong sự nghiệp sáng tác của mình một cách rành mạch và tự tin, sung sướng, trong những câu:
“Những áng văn con in cả rồi
Hai quyển Khối tình văn thuyết lí
Hai Khối tình con là văn chơi
Thần tiên, Giấc mộng văn tiểu thuyết
Đài gương, Lên sáu văn vị đời
Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch
Đến quyển Lên tám nay là mười
Nhờ Trời văn con còn bán được
Chửa biết con in ra mấy mươi?”
Rồi sau đó thi sĩ bắt đầu tự giới thiệu bản thân mình, xưng tên tuổi quê quán một cách dõng dạc và đầy tự hào “Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn/Quê ở Á châu về Địa cầu/Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”. Những cách xử sự ấy của Tản Đà cho thấy ông là một người có bản lĩnh, rất tự tin và đắc chí trong sự nghiệp văn chương, đặc biệt là trong cảnh lên chầu Trời lại như cá gặp nước, thỏa sức vẫy vùng phô diễn tài năng hiếm có.
Song hành cùng với thi sĩ chính là thái độ và cảm xúc của người nhà trời khi nghe đọc thơ, mỗi một cá nhân đều có một cảm xúc, cách thể hiện riêng. Trời vốn dĩ oai nghiêm, bệ vệ làm chủ trời đất, đứng đầu chúng tiên thế mà cũng “lấy làm hay” thậm chí hứng chí “vật buồn cười”, rồi mở miệng ngọc phê “Văn thật tuyệt”. Vị chủ sao Tâm thì sung sướng, thích chí như “nở dạ”, ngôi sao Cơ thì thấy thích thú mà “lè lưỡi”, há miệng thán phục như trẻ con. Còn Hằng Nga, Chức Nữ vốn xưa nay nổi tiếng dịu dàng, e lệ, kín kẽ khi nghe thơ của Tản Đà cũng không khỏi “chau đôi mày”, mặt ngọc ra chiều ngẫm nghĩ cho thấu ý văn sâu sắc của thi nhân. Đến Song Thành, Tiểu Ngọc hai thị nữ của Tây Vương Mẫu cũng phải “lắng tai đứng” chăm chú nghe, thích ý quên cả việc hầu hạ. Bên cạnh những cảm xúc riêng ấy thì chư tiên cùng có một điểm chung ấy là “đọc xong mỗi bài đều vỗ tay”, thể hiện sự tán thưởng, hoan nghênh nhiệt liệt trước tài văn chương của Tản Đà, cùng với niềm ao ước mong mỏi có thể sở hữu những áng văn thơ cho riêng mình để nghiền ngẫm bằng lời mời mọc tha thiết “Chư tiên ao ước tranh nhau dặn: Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”. Từ đó xóa nhòa đi khoảng cách và thân phận của bề trên với kẻ dưới, chỉ còn lại sự yêu mến tha thiết văn chương của độc giả với người thi sĩ tài năng, để cùng nhau trở thành tri âm tri kỷ, đối với người tác giả thì chẳng còn gì sung sướng hơn. Như vậy từ cách mà Tản Đà thuật lại việc lên trời đọc thơ, và thông qua những cung bậc cảm xúc của chư tiên khi nghe người thi sĩ bộc lộ tài năng chúng ta có thể nhận thấy một số nét phác họa bức chân dung của Tản Đà. Ông hiện lên là một con người rất tự tin, kiêu hãnh về tài năng, nhận thức rất rõ về giá trị của cá nhân. Khi ở trần thế ông cảm thấy bản thân không thể tìm được người thấu hiểu, tri âm, tri kỷ, người tôn trọng, trân quý tài năng của mình, ông đã tìm vượt hẳn lên cõi tiên để chứng minh và tìm kiếm người thấu hiểu thơ văn mình. Và ở cõi tiên ấy, Tản Đà như được lột xác, được sống đúng với bản thân mình, tự tin thể hiện tài năng của mình một cách thoải mái, tự nhiên. Mặc khác, việc tìm tri âm tri kỷ ở cõi trời như vậy cũng hé lộ sự cô đơn, lạc lõng của Tản Đà, của những thi sĩ những người cầm bút sáng tác đương thời, bởi “văn chương hạ giới rẻ như bèo” và những người cầm bút sáng tác như Tản Đà hình như bị rẻ rúng, không mấy ai để ý, xem trọng, dẫn tới việc bất đắc chí ở thế gian, và buộc phải tìm sự đắc chí ở cõi khác.
Sau câu chuyện hầu trời, thì thông qua những lời bộc bạch của Tản Đà, độc giả dễ dàng nhận ra câu chuyện đời của tác giả và của chung những người cầm bút đương thời, những cảnh đời khốn khổ mà theo cách nói của Tản Đà là “thực nghèo khó”. Cụ thể thi sĩ bộc bạch với Trời rằng “Trần gian thước đất cũng không có”, đó là một nỗi ám ảnh, một nỗi đau sâu sắc nhất của thi sĩ nên nó còn trở đi trở lại trong nhiều những bài thơ khác của ông ví dụ như câu “Quê hương thời có cửa nhà thời không” trong Thú ăn chơi chẳng hạn. Rồi nỗi đau thứ hai đó là vốn liếng chỉ mỗi “có một bụng văn”, có tư chất, tài năng, thế nhưng nó lại bị o ép bởi nhiều khía cạnh, tiền giấy mực in, tiền cửa hàng thì đắt đỏ mà khốn nỗi “Văn chương hạ giới rẻ như bèo”, thế nên các nhà văn đương thời vướng phải cảnh trớ trêu “Kiếm được đồng lãi thực rất khó/Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều/Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu”, đã nghèo lại càng nghèo hơn. Người nghệ sĩ lâm vào cảnh bế tắc, chỉ định rút hết bụng văn chương của mình cốt để mưu sinh, tựa con tằm rút cạn ruột để nhả tơ cho đời vậy. Mà cái nỗi đời cơ cực ấy đã được Xuân Diệu thốt lên đầy cay đắng rằng “Nỗi đời cơ cực đang giơ vuốt/ Cơm áo không đùa với khách thơ”. Từ thực cảnh đau xót của mình thi sĩ đã bộc lộ nỗi lòng ngậm ngùi trong câu “Một năm ba trăm sáu mươi đêm/Sao được mỗi đêm lên hầu Trời!”, tiếc mãi sao chỉ có mỗi một đêm văn chương của mình được có giá trị, được tôn sùng, bản thân mình được công nhận, được tự tin, thoát khỏi chốn trần ai đầy chật vật, bất đắc chí. Bên cạnh đó còn là nỗi nghi ngại về sứ mệnh, về trách nhiệm của người cầm bút. Mà sứ mệnh ấy được Tản Đà khéo léo thể hiện qua việc Thiên Tào tra sổ, thấy Tản Đà vốn là một trích tiên bị đày xuống hạ giới vì tội ngông cùng với lời truyền, mang tính chất an ủi, động viên của Trời:
“Trời rằng: “Không phải là Trời đày.
Trời định sai con một việc này
Là việc “thiên lương” của nhân loại,
Cho con xuống thuật cùng đời hay.”
Rồi bản thân Tản Đà thấy lời của Trời thế lại không khỏi nghi ngại “Trời lại sai con làm việc nặng quá/Biết làm có được mà dám theo”. Khi mà bản thân tác giả tự coi mình là một cái “Cái cây che chống bốn năm chiều”, bên ngoài chịu đựng biết bao nhiêu việc o ép như thế, biết có lo nổi việc Trời giao hay không. Từ đó nó trở thành cơ sở cho lời động viên của Trời, với sự thấu hiểu vô cùng:
“Rằng: “Con không nói Trời đã biết
Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết
Thôi con cứ về mà làm ăn
Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết!”
Đồng thời cũng chính là lời tự động viên chính mình của thi sĩ, cố gắng vượt qua những thử thách, giữ được tấm lòng thông trước sương tuyết của cuộc đời, để hoàn thành trách nhiệm với cuộc đời. Trở thành cơ sở để người thi sĩ có quyền “ngông” về bản thân. Và cũng từ thân phận và cuộc đời người nghệ sĩ đương thời, ta cũng có thêm một vài nét vẽ nữa về Tản Đà. Ông hiện lên trước hết là thái độ “ngông”, bộc lộ qua sự tự tin kiêu hãnh về giá trị của bản thân, khi tự nhận mình là “trích tiên”, được Trời gửi xuống hạ giới vì sứ mệnh cao cả gieo rắc “thiên lương” cho loài người. Cũng cho thấy ông là người rất có trách nhiệm với cuộc đời, cầm bút sáng tác hướng tới chức năng cốt lõi của văn học là nhân đạo hóa con người.
Qua bài thơ Hầu Trời tác giả đã mạnh dạn thể hiện cái tôi cá nhân, một cái tôi rất ngông, rất phóng túng, cái tôi tự ý thức về tài năng và giá trị đích thực của mình, đồng thời khao khát được khẳng định giá trị của mình trước cuộc đời. Tác phẩm có một số sáng tạo khi sử dụng thể thơ thất ngôn trường thiên, giọng điệu thoải mái, tự nhiên, ngôn ngữ giản dị, sống động và hóm hỉnh, khiến cho độc giả cảm thấy gần gũi, thú vị.
-----Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp-----