YOMEDIA

Cảm nhận hai khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Tải về
 
NONE

Hàn Mặc Tử (1912 - 1940) là một trong những nhà thơ có nhiều đóng góp cho phòng trào Thơ mới giai đoạn 1932 - 1940. Bên cạnh những bài thơ rợn ngợp bởi những hình ảnh ma quái, thơ ông còn có nhiều bài viết về những cảnh đẹp của quê hương xứ sở. Một trong số những bức tranh thanh khiết ấy là bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ và đặc biệt là cảnh thôn quê Vĩ Dạ được tác giả miêu tả trong hai đoạn thơ đầu của bài thơ này. Ngoài ra, để củng cố lại toàn bộ bài học, các em có thể tham khảo thêm bài giảng Đây thôn Vĩ Dạ.

ATNETWORK
YOMEDIA

A. SƠ ĐỒ TÓM TẮT GỢI Ý

 

B. DÀN BÀI CHI TIẾT

1. Mở bài

  • Giới thiệu về tác giả và tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
    • Hàn Mặc Tử (1912 - 1940)
    • Quê: làng Lệ Mĩ, tổng Võ Xá, Phong Lộc, Đồng Hới, Quảng Bình.
  • Dẫn dắt vấn đề: Hình ảnh tinh khôi, thuần khiết của phong cảnh và con người xứ Huế được mô tả thông qua hai khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.

2. Thân bàI

  • Khổ 1:
    • Câu thơ đầu:
      • Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ: làm cho mạch cảm xúc của bài thơ trở nên bâng khuâng, khó tả.
      • Câu hỏi tu từ vừa như một lời mời gọi vừa như có sự  trách móc, hờn dỗi.
    • Ba câu thơ sau: khung cảnh và con người Vĩ Dạ
      • Nắng hàng cau, nắng mới lên: hình ảnh buổi sớm mai với những tia nắng vừa rực rỡ vừa dịu dàng, trong trẻo.
      • Vườn ai mướt quá xanh như ngọc:
        • Biện pháp so sánh: khiến cho cảnh vật nơi đây hóa thành chốn hữu tình.
        • “Mướt”: gợi lên một sức sống đầy mãnh liệt, mọi thứ đều tươi mới, tràn trề sự sống..
        • Nhịp thơ uyển chuyển, kết hợp với từ ngữ mang tính hình tượng cao ->  cảnh vật  nơi đây như càng thêm huyền bí, đẹp đẽ.
      • Câu cuối của khổ thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” gợi ra nhiều suy nghĩ và liên tưởng.
        • Hình ảnh của một vườn trúc xanh tươi, che mát một  khoảng sân của một ngôi nhà.
        • Vẻ đẹp e ấp của một cô gái xứ Huế với khuôn mặt phúc hậu, gợi ra vẻ đẹp duyên dáng mà cũng kín đáo.
  • Khổ 2: Sự chuyển biến về tâm trạng của nhân vật trữ tình – tâm trạng nặng trĩu.
    • Hai câu thơ đầu: gợi cảnh chia lìa sầu não đến sâu thẳm.
    • Điệp từ “gió” và “mây” cùng nhịp điệu của câu thơ -> khiến khung cảnh chia li hiện lên rõ ràng.
    • Hình ảnh trăng gợi lên cho người đọc một niềm tin, niềm hi vọng.
    • Nghệ thuật ẩn dụ, câu hỏi tu từ  “có chở trăng về kịp tối nay”: gợi lên nỗi khao khát, chờ đợi nhưng đồng thời cũng mang một dự báo, một sự lo lắng phân vân.
    • Đại từ phiếm chỉ “Ai”

3. Kết bài

  • Tóm lược lại ý chính của nghệ thuật và nội dung của hai khổ thơ đầu.
    • Nghệ thuật: sử dụng nhiều biện pháp tu từ, hình ảnh thơ trong sáng, gợi nhiều liên tưởng.
    • Nội dung: Miêu tả khung cảnh nên thơ, bình dị của thôn Vĩ và sự chuyển biến tâm trạng của nhân vật trữ tình trong hai khổ thơ đầu.

C. BÀI VĂN MẪU

Đề bài: Cảm nhận hai khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Gợi ý làm bài

Hàn Mặc Tử là nhà thơ có tâm hồn nhạy cảm, những sáng tác của ông được sáng tác và đi vào lòng cũng một cách rất tự nhiên, sâu lắng, để lại nhiều suy ngẫm cho độc giả. Một trong những bài thơ như thế chính là bài Đây thôn Vĩ Dạ, bài thơ nhắc nhiều đến xứ Huế thơ mộng, với vẻ đẹp vừa giản dị vừa yêu kiều như chính người con gái mà tác giả đang thầm thương trộm nhớ. Không những thế bài thơ còn nói lên niềm khát khao được sống, được yêu một cách tha thiết của thi sĩ. Trong đó, hai khổ thơ đầu đã diễn tả một khung cảnh bình yên, hình ảnh con người đẹp e ấp bên lá trúc cùng diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ.

Không giống với các bài thơ khác, mở đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ lại không phải là một câu miêu tả hay một câu cảm thán, mà là một câu hỏi tu từ:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Cảm hứng của bài thơ được khơi gợi từ một tấm thiếp của Hoàng Thị Kim Cúc viết cho Hàn Mặc Tử, những lời thơ khiến cảm xúc của tác giả lại ùa về, gợi nhắc về một miền quê xứ Huế thơ một hữu tình.

Câu đầu của bài thơ, mở đầu bằng một câu hỏi đã lạ mà đằng này lại còn là một câu hỏi tu từ không có người trả lời càng khiến cho mạch cảm xúc của bài thơ trở nên bâng khuâng khó tả. Tuy không được ở gần, không được một lần về thăm lại Vĩ Dạ những với nỗi nhớ da diết đã đưa Hàn Mặc Tử trở về với xứ Huế. Câu hỏi tu từ như một lời trách móc, hờn dỗi của một cô gái muốn thủ thỉ rằng: sao lâu rồi mà anh không về thăm xứ Dạ lấy một lần. Câu hỏi đưa ra vốn không để tìm câu trả lời nên nó gợi nên cảm giác bâng khuâng, khó tả. Nói giống như một lời mời gọi, vừa như một lời giới thiệu mà cũng là sự tiếc nuối của chính tác giả đã lâu không có dịp về thăm chốn xưa : “Sao anh không về thăm thôn Vĩ?” – một lời tự vấn, tự trách bản thân mình.

Khung cảnh Vĩ Dạ dần hiện ra với bao nhiêu cảnh, vừa có nắng vừa có màu sắc rực rỡ lại vừa có hình ảnh của những lá trúc đung đưa trước ngõ nhà ai. Cái tài cái độc đáo của tác giả là gợi ra sự tưởng tượng mới lạ cho chính người đọc.

Không trực tiếp sống ở Vĩ Dạ nhưng với nỗi niềm nhớ Vĩ Dạ tha thiết đã khiến cho tác giả có thể tự phân thân mình đang đặt bước về thăm thôn Vĩ thân thương. Mỗi câu thơ như dẫn ra một vẻ đẹp của nơi đây, không những thế ngôn từ dùng để miêu tả khung cảnh vừa đẹp mà còn vừa có tính gợi. Mọi thứ đều hòa hợp và ánh lên một vẻ đẹp thanh tú, thuần khiết. Hình ảnh hàng cau gợi ra những vẻ đẹp thanh thoát, cao vút và vươn lên đón ánh sớm mai. Len lõi vào đó là những tia nắng bình minh vừa rực rỡ vừa dịu dàng như trải lên cho Vĩ Dạ một vẻ thân thiện lại đầy sự mời gọi. Nắng ở đây càng trở nên đẹp hơn, kì lạ hơn khi tác giả khoác cho nó một chiếc áo ngôn từ “nắng mới lên”. Cái nắng ấy thật tinh khiết mà cũng thật trong trẻo, không một chút gợn của một đêm dài đã trải qua.

Tác giả như dẫn dắt người đọc đi sâu hơn vào khung cảnh của thôn Vĩ. Với biện pháp so sánh, những khu vườn nời đây đã trở nên hữu tình trước mắt người đọc thông qua con mắt nghệ sĩ của Hàn Mặc Tử: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Dường như cây cối ở thôn Vĩ quanh năm đều tốt tươi. Từ “mướt” được sử dụng ở đây quả thực không quá chút nào, xanh mướt, mơn mởn và đầy sức sống. Nhịp thơ uyển chuyển kết hợp với từ ngữ mang tính tượng hình cao, cảnh vật nơi đây như càng thêm huyền bí, đẹp đẽ, vừa có màu của nắng mới lên, vừa có màu xanh mướt của những khu vườn, mọi thứ đều tươi mới và tràn trề nhựa sống.

---Để tham khảo nội dung đầy đủ của tài liệu, các em vui lòng tải về máy hoặc xem trực tuyến---

Hình ảnh trăng hiện ra không chỉ ở bài thơ này mà còn còn là thi liệu của nhiều bài thơ của nhiều thi sĩ khác. Ánh trăng là biểu tượng cho cái đẹp, tượng trưng cho hạnh phúc và thanh bình. Đối với Hàn Mặc Tử hình ảnh trong thơ gợi cho người đọc một niềm tin yêu, một niềm hi vọng. Chỉ có trong thơ mới có sông trăng và hình ảnh thuyền chở trăng thi vị đến vậy. Nghệ thuật ẩn dụ này đã mang đến một cảm giác được chờ đợi, được khao khát nhưng đồng thời nó cũng như một sự dự cảm, một nỗi phân vân: “có chở trăng về kịp tối nay?”. Lời thơ cất lên như một câu hỏi không có đáp án. Hai câu thơ đặc tả tâm trạng khát khao được gặp gỡ nhưng đồng thời cũng thể hiện nỗi lo lắng khôn nguôi.

Mặc dù bài thơ đã ra đời từ cách đây rất lâu, nhưng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ nói chung và hai khổ thơ đầu nói riêng đã tạo nên nhiều cảm xúc của độc giả từ cổ chí kim. Nó không chỉ gợi mở vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là những tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Hàn Mặc Tử, một tâm hồn thơ nhạy cảm muốn giao hòa với đời và với người.

Bên cạnh đề văn Cảm nhận hai khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, các em có thể tham khảo thêm các dạng bài có liên quan đến bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ dưới đây:

Mod Ngữ Văn biên tập và tổng hợp

 

AANETWORK
 

 

YOMEDIA
ATNETWORK
ON