Hướng dẫn soạn bài và luyện tập bài Nhân vật giao tiếp giúp các em học sinh nắm được đặc điểm, vai trò và tác động chi phối lời nói của các nhân vật trong hoạt đông giao tiếp; luyện tập câu 1, câu 2, câu 3 trong SGK Ngữ Văn 12. Ngoài ra, để làm phong phú thêm kiến thức cho bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài soạn Nhân vật giao tiếp tóm tắt.
2. Tóm tắt nội dung bài học
- Nhân vật giao tiếp là những người tham gia vào hoạt động giao tiếp trong vai người nói (người viết) hoặc người nghe (người đọc). Ở dạng nói hội thoại, giữa các nhân vật giao tiếp thường có sự đổi vai và luân phiên lượt lời với nhau. Người nghe có thể là một hoặc nhiều người, người nghe thường hồi đáp lại lời người nói, cũng có thể không hồi đáp lời người nói.
- Những đặc điểm về vị thế, quan hệ thân – sơ, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, vốn sống, văn hóa,…của người nói luôn để lại dấu ấn trong lời nói của họ (thể hiện ở nội dung và hình thức ngôn ngữ).
- Trong giao tiếp, mỗi người phải tùy thuộc vào hoàn cảnh và tình huống giao tiếp cụ thể để lựa chọn cho mình cách giao tiếp hiệu quả nhất.
3. Soạn bài Nhân vật giao tiếp
Câu 1: Xác định đặc điểm của nhân vật giao tiếp, sự chuyển đổi vai giao tiếp, vị thế xã hội, quan hệ thân sơ...trong đoạn trích sau:
Một lần hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thóc vào dốc tỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc. Hắn hò rằng:
“Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!”
Chủ tâm hắn cũng chẳng có ý chòng ghẹo cô nào, nhưng mấy cô gái lại cứ đẩy vai cô ả này ra với hắn, cười như nắc nẻ:
– Kìa anh ấy gọi! Có muốn ăn cơm trắng mấy giò thì ra đẩy xe bò với anh ấy!
Thị cong cớn:
– Có khối cơm trắng mấy giò đấy! Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?
Tràng ngoái cổ lại vuốt mồ hôi trên mặt cười:
– Thật đấy, có đẩy thì ra mau lên!
Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng.
– Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ ! – Thị liếc mắt, cười tít.
(Kim Lân, Vợ nhặt)
Gợi ý làm bài
a. Hoạt động giao tiếp trên có những nhân vật giao tiếp là: Tràng, mấy cô gái và "thị".
- Những nhân vật đó có đặc điểm :
- Về lứa tuổi: Họ đều là những người trẻ tuổi.
- Về giới tính: Tràng là nam, còn lại là nữ.
- Về tầng lớp xã hội: Họ đều là những người dân lao động nghèo đói.
b. Các nhân vật giao tiếp chuyển đổi vai người nói, vai người nghe và luân phiên lượt lời như sau:
- Lúc đầu: Hắn (Tràng) là người nói, mấy cô gái là người nghe.
- Tiếp theo: Mấy cô gái là người nói, Tràng và "thị" là người nghe.
- Tiếp theo: "Thị" là người nói, Tràng (là chủ yếu) và mấy cô gái là người nghe.
- Tiếp theo: Tràng là người nói, "thị" là người nghe.
- Cuối cùng: "Thị" là người nói, Tràng là người nghe.
- Lượt lời đầu tiên của "thị" hướng tới Tràng.
c. Các nhân vật giao tiếp trên: Bình đẳng về vị thế xã hội (họ đều là những người dân lao động cùng cảnh ngộ).
d. Khi bắt đầu cuộc giao tiếp: các nhân vật giao tiếp trên có quan hệ hoàn toàn xa lạ. Nhưng cách giao tiếp dân dã giữa họ đã khiến họ từ quan hệ xa lạ chuyên thành quan hệ thân tình. Ngay câu hò của Tràng cũng là lời giao tiếp có khả năng xóa đi “khoảng cách xa lạ” để tạo ra “quan hệ thân tình ”khiến các cô gái mới có thể cười như nắc nẻ và nói với “thị”: “Kìa anh ấy gọi!”, còn “thị” thì lại có thể nói ngay một câu thật thân tình với Tràng: “Này, nhà tôi ơi…”.
e. Những đặc điểm về vị thế xã hội, quan hệ thân-sơ, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp,… chi phối lời nói của các nhân vật khi giao tiếp:
- Ban đầu chưa quen nên chỉ là trêu đùa thăm dò.
- Dần dần, khi đã quen họ mạnh dạn hơn.
- Vì cùng lứa tuổi, bình đẳng về vị thế xã hội, lại cùng cảnh ngộ nên các nhân vật giao tiếp tỏ ra rất suồng sã.
Câu 2: Xác định nhân vật giao tiếp, vị thế xã hội, chiến lược giao tiếp trong đoạn văn sau:
Thoáng nhìn qua, đã hiểu cơ sự rồi. Làm lý trưởng rồi chánh tổng, bây giờ lại đến lượt con cụ làm lý trưởng, những việc như thế này cụ không lạ gì. Cụ hãy quát mấy bà vợ đang xưng xỉa chực tâng công với chồng:
- Các bà đi vào nhà: đàn bà chỉ lôi thôi, biết gì?
Rồi quay lại bọn người làng, cụ dịu giọng hơn một chút:
- Cả các ông, các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại như thế này?
Không ai nói gì, người ta dần dần tản đi. Vì nể cụ bá cũng có, nhưng vì nghĩ đến sự yên ổn của mình cũng có: người nhà quê vốn ghét lôi thôi. Ai dại gì đứng ỳ ra đấy, có làm sao họ triệu mình đi làm chứng. Sau còn trơ lại Chí Phèo và cha con cụ bá. Bây giờ cụ mới lại gần hắn, khẽ lay và gọi:
- Anh Chí ơi! Sao anh lại làm ra thế ?
Chí Phèo lim dim mắt, rên lên:
- Tao chỉ liều chết với bố con nhà mầy đấy thôi. Nhưng tao mà chết thì có thằng sạt nghiệp, mà còn rũ tù chưa biết chừng.
Cụ bá cười nhạt, nhưng tiếng cười giòn giã lắm: người ta bảo cụ hơn người cũng chỉ bởi cái cười.
- Cái anh này nói mới hay! Ai làm gì mà anh phải chết? Đời người chứ có phải con ngoé đâu? Lại say rồi phải không?
Rồi đổi giọng, cụ thân mật hỏi:
- Về bao giờ thế? Sao không vào tôi chơi? Đi vào nhà uống nước.
Thấy Chí Phèo không nhúc nhích, cụ tiếp luôn:
- Nào đứng lên đi. Cứ vào đây uống nước đã. Có cái gì ta nói chuyện tử tế với nhau, cần gì mà phải làm thanh động lên như thế, người ngoài biết, mang tiếng cả.
Rồi vừa xốc Chí Phèo, cụ vừa phàn nàn:
- Khổ quá! Giá có tôi ở nhà thì đâu đến nỗi. Ta nói chuyện với nhau, thế nào cũng xong. Người lớn cả, chỉ một câu chuyện với nhau là đủ. Chỉ tại thằng lý Cường nóng tính không biết nghĩ trước nghĩ sau. Ai, chứ anh với nó còn có họ kia đấy.
Chí Phèo chẳng biết họ hàng ra làm sao, nhưng cũng thấy lòng nguôi nguôi. Hắn cố làm ra vẻ nặng nề, ngồi lên. Cụ bá biết rằng mình đã thắng, đưa mắt nháy con một cái, cụ quát:
- Lý Cường đâu! Tội mày đáng chết. Không bảo người ta đun nước, mau lên!
(Nam Cao, Chí Phèo)
Gợi ý làm bài
a. Các nhân vật giao tiếp trong đoạn văn: Bá Kiến, Lí Cường, mấy bà vợ Bá Kiến, dân làng và Chí Phèo.
- Bá Kiến nói với một người nghe trong trường hợp nói với Chí Phèo.
- Còn lại, khi nói với mấy bà vợ, với dân làng, với Lí Cường, Bá Kiến nói cho nhiều người nghe (có cả Chí Phèo).
b. Vị thế xã hội của Bá Kiến với từng người nghe:
- Với mấy bà vợ: Bá Kiến là chồng (chủ gia đình) nên "quát".
- Với dân làng: Bá Kiến là "cụ lớn", thuộc tầng lớp trên, lời nói có vẻ tôn trọng (các ông, các bà) nhưng thực chất là đuổi (Về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại thế này?).
- Với Chí Phèo: Bá Kiến vừa là ông chủ cũ, vừa là kẻ đã đẩy Chí Phèo vào tù, kẻ mà lúc này Chí Phèo đến "ăn vạ". Bá Kiến vừa thăm dò, vừa dỗ dành vừa có vẻ đề cao, coi trọng.
- Với Lí Cường: Bá Kiến là cha, cụ quát con nhưng thực chất cũng là để xoa dịu Chí Phèo.
c. Đối với Chí Phèo, Bá Kiến thực hiện chiến lược giao tiếp có thể nói là rất hoàn hảo để đánh gục đối thủ bằng cả lời nói và hành động theo các bước sau đây:
- Trước hết, Bá Kiến đuổi hết mọi người về để cô lập địch thủ và chỉ đối thoại riêng với Chí Phèo.
- Sau đó, Bá Kiến tìm mọi cách để “hạ nhiệt” cơn tức giận của Chí Phèo.
- Tiếp theo, Bá Kiến nâng vị thế của chí phèo lên ngang hàng với mình và nhận chí phèo là có họ hàng.
- Cuối cùng, Bá Kiến kết tội Lí Cường, con trai mình, rồi hạ lệnh cho Lí Cường phải đón tiếp Chí Phèo chu đáo để làm cho Chí Phèo hả dạ, tin theo mình.
d. Với chiến lược giao tiếp như trên, Bá Kiến đã đạt được mục đích và hiệu quả giao tiếp.
- Những người nghe trong cuộc hội thoại với Bá Kiến đều răm rắp nghe theo lời Bá Kiến.
- Đến như Chí Phèo, hung hãn là thế mà cuối cùng cũng bị khuất phục.
Để nắm được đặc điểm, vai trò và tác động chi phối lời nói của các nhân vật trong hoạt đông giao tiếp, các em có thể tham khảo
4. Hướng dẫn luyện tập
Câu 1: Phân tích sự chi phối của vị thế xã hội ở các nhân vật đối với lời nói của họ trong đoạn trích sau:
Anh Mịch nhăn nhó, nói:
- Lạy ông, ông làm phúc tha cho con, mai con phải đi làm trừ nợ cho ông Nghị, kẻo ông ấy đánh chết.
ông lý cau mặt, lắc đầu, giơ roi song to bằng ngón chân cái lên trời, dậm dọa:
- Kệ mày, theo lệnh quan, tao chiếu sổ đinh, thì lần này đến lượt mày rồi.
- Cắn cỏ con lạy ông trăm nghìn mớ lạy, ông mà bắt con đi thì ông Nghị ghét con, cả nhà con khổ.
- Thì mày hẹn làm ngày khác với ông ấy, không được à?
- Đối với ông Nghị, con là chỗ đầy tớ, con sợ lắm. Con không dám nói sai lời, vì là chỗ con nhờ vả quanh năm. Nếu không, vợ con con chết đói.
- Chết đói hay chết no, tao đây không biết, nhưng giấy quan đã sức, tao cứ phép tao làm, đứa nào không tuân, để quan gắt, tao trình thì rũ tù.
- Lạy ông, ông thương phận nào con nhờ phận ấy.
- Mặc kệ chúng bay, tao thương chúng bay, nhưng ai thương taọ Hôm ấy mày mà không đi, tao sai tuần đến gô cổ lại, đừng kêu.
(Nguyễn Công Hoan, Tinh thần thể dục)
Gợi ý làm bài
|
Anh Mịch |
Ông Lí |
Vị thế xã hội |
Kẻ dưới- nạn nhân bị bắt đi xem đá bóng. |
Bề trên- thừa lệnh quan bắt người đi xem đá bóng. |
Lời nói |
Van xin, nhún nhường (gọi ông, lạy…) |
Hách dịch, quát nạt (xưng hô mày tao, quát, câu lệnh…) |
Câu 2: Phân tích mối quan hệ giữa đặc điểm vị thế xã hội, nghề nghiệp, giới tính, văn hóa...của các nhân vật giao tiếp với đặc điểm trong lời nói của từng người ở đoạn trích sau:
Bỗng dưng tất cả dừng lại, dưới cây đũa thần, hay đúng hơn dưới ngọn roi gân bò mà viên đội xếp Tây vừa vung lên vừa quát tháo: "Cái giống tởm nhà mày! Có cút đi không, cái giống tởm!" Thế là cái đám đông lúc nhúc đứng sắp hàng, vừa yên lại vừa lặng, hai bên lề đường. Gì thế nhỉ? Xe ô tô quan Toàn quyền sắp đi qua đấy... Xe kia rồi! Lại cả ông Toàn quyền đây rồi!
- Quan có cái mũ hai sừng trên chóp sọ! Một chú bé con thầm thì.
- Ồ! cái áo dài đẹp quá! Một chị con gái thốt ra.
- Ngài sắp diễn thuyết đấy! Một anh sinh viên kêu lên.
- Đôi bắp chân ngài bọc ủng! Một bác cu-li xe thở dài.
- Rậm râu, sâu mắt! Một nhà nho lẩm bẩm.
Thế là ô-tô ông Va-ren chạy qua giữa hai hàng rào con người, lưng khom lại khi ngài đến gần. Cùng lúc, một tiếng rào rào nổi lên: "Lạy quan lớn! Bẩm lạy quan lớn ạ!" .
(Nguyễn Ái Quốc, Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu)
Gợi ý làm bài
- Đoạn trích gồm các nhân vật giao tiếp:
- Viên đội sếp Tây.
- Đám đông.
- Quan Toàn quyền Pháp.
- Mối quan hệ giữa đặc điểm về vị thế xã hội, nghề nghiệp, giới tính, văn hóa,… của các nhân vật giao tiếp với đặc điểm trong lời nói của từng người:
- Chú bé: trẻ con nên chú ý đến cái mũ, nói rất ngộ nghĩnh.
- Chị con gái: phụ nữ nên chú ý đến cách ăn mặc (cái áo dài), khen với vẻ thích thú.
- Anh sinh viên: đang học nên chú ý đến việc diễn thuyết, nói như một dự đoán chắc chắn.
- Bác cu li xe: chú ý đôi ủng.
- Nhà nho: dân lao động nên chú ý đến tướng mạo, nói bằng một câu thành ngữ thâm nho.
- Kết hợp với ngôn ngữ là những cử chỉ điệu bộ, cách nói. Điểm chung là châm biếm, mỉa mai.
Câu 3: Phân tích vị thế xã hội, sự tương tác về hành động nói, tính cách và cách ứng xử của các nhân vật giao tiếp trong đoạn văn sau"
Bà lão láng giềng lại lật đật chạy sang:
- Bác trai đã khá rồi chứ?
- Cảm ơn cụ, nhà cháu đã tỉnh táo như thường. Nhưng xem ý hãy còn lề bề, lệt bệt chừng như vẫn mỏi mệt lắm.
- Này, bảo bác ấy có trốn đi đâu thì trốn. Chứ cứ nằm đấy, chốc nữa họ vào thúc sưu, không có, họ lại đánh trói thì khổ. Người ốm dề dề như thế, nếu lại phải một trận đòn, nuôi mấy tháng cho hoàn hồn?
- Vâng, cháu cũng đã nghỉ như cụ. Nhưng để cháo nguội, cháu cho nhà cháu ăn lấy vài húp cái đã.
Nhịn xuông từ sáng hôm qua đến giờ còn gì.
- Thế thì phải giục anh ấy ăn mau mau đi, kẻo nữa người ta sắp sửa keo vào rồi đấy!
Rồi bà lão lại lật đật trở về với vẻ mặt băn khoăn.
(Ngô Tất Tố, Tắt đèn)
Gợi ý làm bài
a. Bà lão hàng xóm và chị Dậu có cung một vị thế xã hội như nhau: họ đều là những người nông dân nghèo trong xã hội thực dân phong kiến trước cách mạng tháng Tám. Quan hệ của họ là quan hệ láng giềng “tối lửa tắt đèn” có nhau, thực chất là tình thương yêu giai cấp giữa những người lao động với nhau. Vị thế và quan hệ đó đã chi phối lời nói và cách nói của hai người đối với nhau rất rõ.
- Bà lão: bác trai, anh ấy,…
- Chị Dậu: cảm ơn, nhà cháu, cụ,…
⇒ Cách nói thân mật, gần gũi.
b. Sự tương tác về hành động nói giữa lượt lời của hai nhân vật giao tiếp được thể hiện như sau:
- Câu 1: Bác trai đã khá rồi chứ? (Bà lão hỏi thăm).
- Câu 2: cảm ơn cụ, nhà cháu đã tỉnh táo như thường…(chị Dậu cảm ơn).
- Những câu sau cũng có nội dung và cách nói tương tự như vậy.
c. Lời nói và cách nói của các nhân vật cho thấy:
- Tính cách tốt đẹp: bà cụ thương người, quan tâm nhiệt tình đến người bị nạn; chị Dậu thương chồng, săn sóc chồng chu đáo, mang ơn người đã cứu giúp chồng mình.
- Văn hóa đáng trọng: tuy là người lao động nhưng cách ứng xử và lời nói của họ đều chứng tỏ họ là những người có văn hóa đáng trân trọng.