Nhằm tiếp nối hệ thống bài học Bài 3: Khát khao đoàn tụ (Truyện thơ), HỌC247 đã biên soạn và tổng hợp nội dung bài giảng Đọc mở rộng theo thể loại: Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu (Trích Quan Âm Thị Kính – truyện thơ khuyết danh Việt Nam) dưới đây. Với nội dung bài giảng rõ ràng, dễ hiểu sẽ giúp các em tìm hiểu hình ảnh nhân vật Thị Kính - biểu tượng cho người phụ nữ xã hội phong kiến, vừa dịu dàng, nết na; vừa chứa đựng tấm lòng nhân hậu. Chúc các em học tốt!
Tóm tắt bài
1.1. Tìm hiểu chung
1.1.1. Thể loại
- Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu thuộc thể loại truyện thơ dân gian.
- Truyện thơ dân gian Việt Nam trải qua quá trình hình thành và phát triển, trong giai đoạn đó, các tác phẩm mang những sắc thái đầy khuynh hướng vô cùng hấp dẫn. Mỗi tác phẩm truyện thơ được thể hiện nội dung qua nhiều bài truyện thơ, có đặc điểm:
+ Truyện thơ là câu chuyện có cốt truyện.
+ Phản ánh cuộc sống hiện thực đầy hấp dẫn.
+ Mô hình nhân quả được dựa theo mô hình.
1.1.2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
Thị Kính nuôi con Thị Mầu trích Quan Âm Thị Kính, NXB Khoa học Xã Hội năm 2000.
1.2.3. Bố cục văn bản:
- Phần 1: Từ đầu đến “Xót tình măng sữa nâng vào trong tay” - Thị Kính bị đổ oan và nuôi con cho Thị Mầu
- Phần 2: Còn lại – Tình yêu mà Thị Kính dành cho đứa trẻ.
1.2.4. Tóm tắt tác phẩm:
Tác phẩm Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu tái hiện lại câu chuyện Thiện Sĩ kết duyên với Thị Kính. Sau khi Thị Kính cầm dao xén râu của chồng và bị oan khi bố mẹ chồng đổ tội cho nàng, Thị Kính giả trai lên chùa Vân Tự với pháp hiệu Kính Tâm. Trong khi đó, Thị Mầu có con với người khác và bị làng bắt phạt. Thị Mầu khai rõ ràng là con của Kính Tâm và đem con của mình bỏ cho Thị Kính nuôi. Kính Tâm ròng rã ba năm, mỗi ngày đi xin sữa để nuôi con của Thị Mầu. Trước khi qua đời, Kính Tâm viết thư để lại cho cha mẹ và mọi người đã đồng lòng lập đàn giải oan cho nàng.
1.2. Đọc hiểu văn bản
1.2.1. Thị Kính bị đổ oan và nuôi con cho Thị Mầu
a. Gia cảnh của Thị Kính:
- Xuất thân là con gái nhà nghèo, lấy chồng tên Thiện Sỹ - con trai phú ông.
- Sau một lần hiểu lầm rằng Thị Kính muốn sát gại chồng nên cha mẹ của Thiện Sỹ là Sùng ông, Sùng bà tức giận đuổi Thị Kính về quê. Ôm nỗi hận muốn quyên sinh nhưng thương cha mẹ già không ai báo hiếu nên cải trang nam nhi và đi tu ở chùa Vân Tự, đổi tên là Kính Tâm.
b. Lí do bị Thị Mầu đổ oan:
- Làng có nàng Thị Mầu vốn tính lẳng lơ, dám say mê cả phật tử là Kính Tâm. Nàng ta lỡ dỡ có chửa với đầy tớ. Khi bị hào lí trong làng tra hỏi, nàng ta đổi tội ngay cho Kính Tâm. Cứ thế người phụ nữ tội nghiệp lại phải chịu nỗi oan ức lần thứ hai. Sau khi sinh con, Thị Mầu đem “trả” cho Kính Tâm:
Tiểu đương tụng niệm khấn nguyền,
Bỗng nghe tiếng trẻ tá lên giật mình.
Ngoảnh đi thị dạ chẳng đành,
Nhận ra thì hóa là tình chẳng ngay.
Gớm thay mặt dạn mày dày,
Trân trân rằng giá con đây mà về.
+ Vốn là chú tiểu đi tu ngày đêm nghe tiếng “tụng niệm khấn nguyền” mà nay giật mình nghe tiếng khóc “tá” của trẻ em.
+ Là nhà sư chân chính nay vướng phải nghiệt duyệt. => Kính Tâm khó xử:
Bỏ rơi đứa bé thì “chẳng đành”,
Nhận đứa bé về chăm sóc thì hóa “tình chẳng ngay”.
c. Kính Tâm quyết định nhận nuôi đứa trẻ:
Cơ thiển kể đã khắt khe,
Khéo xui, ra đứa làm rê riếu mình.
Nhưng mà trong dạ hiếu sinh,
Phúc làm thì phúc, dơ thì đành dơ.
Cá trong chậu nước sởn sơ,
Thì nay chẳng cứu, còn chờ khi nao.
Chẳng sinh cũng chịu cù lao,
Xót tình măng sữa nâng vào trong tay.
=> Nhận xét:
- Kính Tâm là người hiền lành, nhân hậu: từ cõi “cơ thiền” nay cũng trở nên khắt khe, dậy sóng.
- Vốn để tâm thanh tịnh nay phải chịu oan Thị Mầu “khéo xui ra đứa” làm tổn hại đến thanh danh của mình. Thế nhưng vì quý trọng sinh mệnh “trong dạ hiếu sinh” mà Kính Tâm gạt bỏ đi hết lời gièm pha, cho dù người đời có bàn tán ra sao thì “phúc vẫn là làm phúc”.
Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu và gạt bỏ đi lời bàn tán của người đời
1.2.2. Tình yêu mà Thị Kính dành cho đứa trẻ
a. Việc Kính Tâm nhận nuôi đứa trẻ:
Bữa sau sư phụ mới hay,
Dạy rằng: “Như thế thì thầy cũng nghi.
Phỏng như khác máu ru thì,
Con ai mặc nấy can gì đa mang.
- Sư phụ hiểu và xót thương cho thân phận Kính Tâm, nhưng là người không rõ sự tình, là đứa con khác máu không phải do mình sinh ra thì hà cơ gì Kính Tâm lại nhận nuôi để làm nên nỗi oan ức tủi hổ.
=> Sau cùng sư phụ cũng bị cảm hóa bởi tình nghĩa tử cao đẹp.
b. Tấm lòng từ bi của Kính Tâm:
Bạch rằng: Muôn đội thầy thương,
Xưa nay thầy dạy mọi đường nhỏ to.
Dẫu xây chín đợt phù đồ,
Sao bằng làm phúc cứu cho một người.
...
Sư nghe thưa lại mấy điều,
Khen rằng: “Cũng có ít nhiều từ tâm”.
Rõ là nước lã mà nhầm,
Cũng đem giọt máu tình thâm hòa vào.
- Dù cho có xây chín tháp “phù đồ” cũng không thể bằng cứu một sinh mệnh.
=> Nhận xét: Từ tình người nhân hậu như “nước lã”, Kính Tâm đã dâng trọn tấm lòng để hòa vào “giọt máu tình thâm”, Kính Tâm coi đứa bé như là con đẻ của mình, hết mực yêu thương, nuôi nấng.
Mẹ vò thì sữa khát khao,
Lo nuôi con nhện làm sao cho tuyền.
Nâng niu xiết nỗi truân chuyên,
Nhai cơm mướm sữa để nên con người.
Đến dân ai cũng chê cười,
Tiểu kia tu có trót đời được đâu.
Biết chăng một đứa thương đâu,
Mình là hai với Thị Mầu là ba.
- “Mẹ vò” – dẫu biết không phải con mình nhưng Kính Tâm vẫn lo cho đứa trẻ không thiếu bữa nào.
- Ngày đêm chăm ẵm, nâng niu, xin sữa nuôi con, mong con khôn lớn.
- Nhưng sự thật không được phơi bày.
- Miệng đời tàn ác, đồn thổi Kính Tâm không thể tu thành chính quả.
Ra công nuôi bộ thực là,
Nhưng buồn có trẻ hóa ra đỡ buồn.
c. Tình yêu, niềm hạnh phúc của Kính Tâm khi nhận nuôi đứa trẻ:
- Ngày ngày nghe tiếng trẻ thơ tíu tít bao nỗi lo âu, trăn trở hóa hư vô.
Khi trống tàn, lúc chuông dồn,
Tiếng chuông lẫn tiếng ru con tối ngày.
- Không gian tĩnh mịnh nơi chùa thiêng xen lẫn cả “tiếng ru” .
=> Cảm nhận được tình mẫu tử không chỉ tồn tại ở chính cha mẹ sinh ra mình mà còn hòa vào nhau khi gặp tấm lòng từ bi giáng thế.
- Kính tâm làm tròn đạo làm cha, nuôi nấng con với đầy đủ điều kiện, có cả “lọ phương hoạt ấu”, “lọ thầy bảo anh”, hai thứ đó tượng trưng cho vị thầy thuốc bảo vệ sức khỏe của trẻ thơ.
Phù trì như thổi ra ngay,
Lọ phương hoạt ấu lọ thầy bảo anh.
Bùa thiêng đã sẵn kim kinh,
Ma vương kia cũng phải kiêng họ là.
- Rồi thấm thoắt ba năm trôi đi, đứa bé đã lớn giống với “cha nuôi” của mình – Kính Tâm Giả trai đi tu trốn chùa Thanh Tịnh.
- Kính Tâm hi vọng con cái trưởng thành và có công danh rạng rỡ:
Thoi đưa tháng trọn qua ngày,
Mấy thu mà đã lên ba tuổi rồi.
Con mày mà giống cha nuôi,
Hình dung ý tứ khác nào bán sinh.
Mai ngày đến lúc trường thành,
Cơ cầu dễ rạng tiền trình hơn xưa.
=> Nhận xét: Kính Tâm cũng như bao người cha mẹ khác mong ước con mình mai này trưởng thành “cơ cầu” giỏi giang để nối nghiệp ông cha, mong cho “tiến trình” tương lai dẫn bước con càng thành công rạng rỡ hơn lớp ông cha con bây giờ.
1.3. Tổng kết
1.3.1. Về nội dung
Văn bản kể về việc Thị Mầu mang thai, bị làng bắt phạt nên khai liều là của Kính Tâm. Thị Mầu sinh con mang tới chùa đổ vạ, Thị Kính suốt 3 năm trời ròng rã xin sữa nuôi con, cuối cùng thân tàn lực kiệt, viết thư để lại cho cha mẹ rồi chết đi. Cuối cùng mọi người mới biết Kính Tâm là nữ, bèn lập đàn giải oan cho nàng.
1.3.2. Về nghệ thuật
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình.
- Tình huống truyện đặc sắc lôi cuốn hấp dẫn.
- Ngôn ngữ, hành động, lời thoại thể hiện đặc sắc trong vở chèo.
Bài tập minh họa
Thông điệp bạn nhận được qua đoạn trích Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu là gì? Dựa vào đâu bạn cho là như vậy?
Lời giải chi tiết:
Qua đoạn trích “Thị Kính nuôi con Thị Mầu”, thông điệp mà em rút ra được là phẩm chất bao dung, vị tha dựa vào các tình huống truyện và cách xây dựng hình ảnh nhân vật Thị Kính - biểu tượng cho người phụ nữ xã hội phong kiến, vừa dịu dàng, nết na; vừa chứa đựng tấm lòng nhân hậu, sẵn sàng cứu giúp những mảnh đời khó khăn hơn mình, cho dù bản thân Thị Kính phải chịu tiếng oan.
Lời kết
Học xong bài Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu, các em cần:
- Nhận biết và phân tích được một số yếu tố của truyện thơ dân gian như: cốt truyện, nhân vật, người kể chuyện, ngôn ngữ.
- Nhận xét được những chi tiết quan trọng trong việc thể hiện nội dung truyện thơ.
- Phân tích và đánh giá được chủ đề, tư tưởng, thông điệp mà tác giả muốn gửi đến người đọc.
Soạn bài Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu - Ngữ văn 11 tập 1 Chân Trời Sáng Tạo
Tấm lòng từ bi, nhân hậu của nhân vật Thị Kính trong đoạn trích "Thị Kính nuôi con Thị Mầu" trong tập truyện thơ "Quan Âm Thị Kính" đã tạo ra một ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật sân khấu hiện đại của Việt Nam. Để nắm được nội dung và ý nghĩa của bài học này, các em có thể tham khảo bài soạn:
- Soạn bài đầy đủ Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu
- Soạn bài tóm tắt Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu
Hỏi đáp bài Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu - Ngữ văn 11 tập 1 Chân Trời Sáng Tạo
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn HỌC247 sẽ sớm trả lời cho các em.
Một số bài văn mẫu về văn bản Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu
Qua đoạn trích Thị Kính nuôi con Thị Mầu, hình ảnh nhân vật Thị Kính - biểu tượng cho người phụ nữ xã hội phong kiến, vừa dịu dàng, nết na; vừa chứa đựng tấm lòng nhân hậu, cho dù bản thân Thị Kính phải chịu tiếng oan. Để hiểu hơn về bài học này, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
-- Mod Ngữ văn 11 HỌC247