Xuân Diệu được mệnh danh là ông hoàng thơ tình Việt Nam, các tác phẩm thơ của ông luôn nồng nàn mãnh liệt, thế nhưng trong bài Thơ duyên, tình yêu ấy lại nhẹ nhàng, hòa quyện với lòng người vào một buổi chiều thu. Bài học Thơ duyên - Xuân Diệu thuộc sách Chân Trời Sáng Tạo sẽ giúp các em có thêm kiến thức về tác phẩm. Qua đó, cảm nhận được tình yêu đất nước quê hương của tác giả. Chúc các em có nhiều kiến thức lí thú!
Tóm tắt bài
1.1. Tìm hiểu chung
1.1.1. Tác giả Xuân Diệu
a. Tiểu sử
Chân dung nhà thơ Xuân Diệu
- Xuân Diệu (1916- 1985) tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu
- Quê: Can Lộc - Hà Tĩnh nhưng sống với mẹ ở Quy Nhơn
- Năm 1937, Xuân Diệu ra Hà Nội học trường Luật và viết báo, là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn
- Cuối năm 1940, ông vào Mĩ Tho (nay là Tiền Giang) làm viên chức tham tá thương chánh
- Năm 1942, ông quay lại Hà Nội sống bằng nghề viết văn
- Năm 1944, Xuân Diệu tham gia phong trào Việt Minh
- Trong kháng chiến, Xuân Diệu di tản lên chiến khu Việt Bắc, hoạt động văn nghệ cách mạng
- Hòa bình lập lại, Xuân Diệu về sống và làm việc tại Hà Nội đến khi mất
b. Sự nghiệp văn học
- Phong cách sáng tác:
+ Xuân Diệu đã đem đến cho thơ ca đương đại một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo
+ Ông là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với một giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết
- Di sản văn học: Tác phẩm tiêu biểu là Thơ thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), Riêng chung (1960)... Ngoài ra ông còn viết văn xuôi và tiểu luận phê bình, nghiên cứu văn học
c. Vị trí và tầm ảnh hưởng
- Là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới
- Xuân Diệu là cây bút có sức sáng tạo mãnh liệt, dồi dào, bền bỉ, có đóng góp to lớn trên nhiều lĩnh vực đối với nền văn học Việt Nam hiện đại
- Xuân Diệu xứng đáng với danh hiệu một nhà thơ lớn, một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn
- Ông được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật (1996)
1.1.2. Tác phẩm Thơ duyên
a. Xuất xứ
Bài thơ được in trong tập Tuyển tập Xuân Diệu (thơ) – NXB Văn học, Hà Nội, 1986, tr 100 – 101).
b. Thể loại
Thể thơ thất ngôn (7 chữ).
c. Bố cục
Chia bài thơ làm 3 phần:
- Đoạn 1: khổ 1,2: Khung cảnh một buổi chiều thu
- Đoạn 2: khổ 3: Sự hòa hợp trong tâm hồn nhà thơ
- Đoạn 3: khổ 4,5: Vạn vật trong thơ duyên trở nên có linh tính.
1.2. Đọc hiểu văn bản
1.2.1. Khung cảnh của một buổi chiều thu
- Nhìn vào buổi chiều thu nhà thơ thấy được một cái đẹp rất riêng.
- Đó là một buổi chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên.
- Ở đó có tiếng chim hót ríu vang, có màu xanh của lá cũng trở nên xanh hơn, có bầu trời tuyệt đẹp.
-->Các yếu tố đó đã tổng hòa với nhau tạo thành một cái duyên, một cái thơ rất đẹp, đáng yêu, yêu kiều…
- Lúc này cả không gian đều được hiện ra trong vẻ đẹp tuyệt mĩ của mình.
- Nó như một âm thanh không nghe thấy được nhưng lại huyền diệu vô cùng.
-->Từ đó mọi điều bình thường bỗng chốc trở nên khác thường và dẹp hơn.
1.2.2. Sự hòa hợp trong tâm hồn của nhà thơ
- Con đường bé nhỏ ấy đã trở nên đẹp hơn và ngọn gió chiều cũng đã thổi se sẽ hơn. - Những cánh hoa lả xuống trước ngọn gió liêu xiêu.
-->Sự hòa hợp trong chính tâm hồn.
- Từ nỗi yêu thương ấy đã làm nhà thơ muốn đi đến tận cùng tình cảm của mình. -àĐó là một điều rất lạ và cũng rất đỗi ngạc nhiên.
- Câu thơ cuối cùng với ý nghĩa là một cặp vần. Đó cũng chính là sự hòa hợp trọn vẹn của ngôn từ và âm thanh để tạo nên cái kỳ diệu trong thơ.
1.2.3. Vạn vật trong Thơ duyên cũng trở nên có linh tính
- Khi nhận ra được sự thay đổi trong lòng mình nhà thơ đã nhìn ra vạn vật xung quanh.
- Tất cả đều đổi thay như được chinh phục bởi một sức mạnh diệu kỳ.
- Khi này vạn vật không còn vô tri, vô giác nữa mà đã trở nên có linh tính hơn.
- Chúng cũng biết yêu thương, xao động như những con người.
- Từ một đám mây, cánh cò, cánh chim, bông hoa đều có những sự trăn trở bên trong.
- Câu thơ này thể hiện được cái náo nức, phân vân của một thế hệ thơ mới, thế hệ của những nhà thơ hiện đại.
1.3. Tổng kết
1.3.1. Về nội dung
Qua việc miêu tả thiên nhiên để bộc lộ tình yêu lứa đôi, tình yêu với cuộc sống, với con người, và sự giao hòa, hòa hợp tuyệt diệu giữa thiên nhiên và con người.
1.3.2. Về nghệ thuật
- Sử dụng các từ láy
- Phép nhân hóa linh hoạt
- Các từ ngữ đặc sắc một nét khá đặc biệt trong bài thơ là cách ngắt câu
Bài tập minh họa
Bài tập: Phân tích bài Thơ duyên - Xuân Diệu, SGK Ngữ văn 10 tập 1 Chân Trời Sáng Tạo.
Hướng dẫn giải:
- Giới thiệu Thơ duyên có những vẻ riêng, một chất riêng so với phần Lớn thơ Xuân Diệu nói chung, trong thơ ca nói riêng.
- Thơ duyên ca ngợi cái duyên, sự hòa hợp đến kì diệu xảy đến vào một buổi chiều thu.
+ Sự hòa hợp lạ lùng xảy ra trong thiên nhiên, giữa vạn vật, giữa thời gian và không gian, giữa bầu trời và mặt đất, giữa cây cỏ với chim muông.
+ Sự hòa hợp làm cho những sự vật bình thường bỗng trở nên đáng yêu, bỗng làm nảy sinh tình cảm yêu mến trong trái tim con người.
+ Sự hòa hợp, cảm thông giữa hai con người vốn xa lạ, hoàn toàn ngoài ý muốn chủ quan, một sự hòa hợp đẹp đẽ, trọn vẹn. Mọi vật bồng trở nên sinh động.
+ Đẹp nhất vẫn là sự hòa hợp giữa con người.
- Khẳng định giá trị của Thơ duyên. Tình yêu cuộc sống.
Lời giải chi tiết:
Nói đến thơ Xuân Diệu là nói đến những cảm xúc tột cùng mãnh liệt, những yêu thương tột độ đắm say, sôi nổi. Bởi vậy, đọc tập Thơ thơ, người đọc vừa ngạc nhiên vừa thú vị khi gặp một bài thơ rất dịu dàng, dịu từ ý đến lời: Thơ duyên.
Xét cho cùng. Thơ duyên cũng là một bài thơ về tình yêu, nhưng là tình yêu theo nghĩa rộng lớn, tình yêu đối với cuộc sống, đối với con người, đối với mọi vẻ đẹp, sự hòa hợp ở đời. Đây là thơ về cái duyên, cái hài hòa tuyệt vời mà một ngày kia nhà thơ bỗng nhận ra, giữa vũ trụ với cuộc đời, giữa đất trời với cây cỏ muông thú, giữa thời gian với không gian, giữa vạn vật với con người.
Điều ấy không phải bất kì lúc nào củng xảy ra nhưng đã có lần xảy ra. Lúc ấy, nhìn vào bầu trời đến mặt đất, nhà thơ cũng chỉ nhìn thấy cái đẹp:
Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên.
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền
Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên. Quả thật đây là lúc mà cả không gian lẫn thời gian đều thi nhau mà hiện ra trong vẻ tuyệt mĩ của mình. Bởi vậy mối quan hệ nhánh duyên là một mối quan hệ tuyệt mĩ: hòa thơ. Từ mối liên hệ ấy, mọi điều đều trở nên hãi hòa tuyệt đẹp. Cặp chim đang chuyên cành hót vang ríu rít. Tiếng ríu rít hình như không chỉ vang lên từ cặp chim chuyền mà lên cả từ cây me nữa. Muôn lá vốn xanh, bầu trời vốn xanh, cả trời cùng muôn lá trở nên xanh hơn, xanh đến tuyệt đẹp: xanh ngọc. Trong khổ thơ, có đường nét, dáng hình, có cả màu sắc, âm thanh, mà điều nào cũng đến tột cùng của cái duyên, cái thơ, cái đẹp, cái đáng yêu. Kết thúc khổ thơ, Xuân Diệu phát hiện ra:
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền
Có một điều gì đó thật là huyền bí, thật là đẹp đẽ, chi phối cả vũ trụ lúc này, tạo nên mọi vẻ đẹp lúc này. Nó như một âm thanh không nghe thấy được nhưng huyền diệu vô cùng, có sức mạnh vô cùng. Lắng nghe được tiếng huyền ấy của vũ trụ, nhà thơ nhìn vào cảnh vặt xung quanh mình: Tất cả những điều bình thường bỗng trở nên khác thường đẹp hơn, đáng yêu hơn, có tình hơn, hòa hợp hơn:
Con đường nho nhỏ gió xiêu xiêu
Là lá cành hoang nắng trở chiều
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu.
Con đường như nhỏ lại để trở nên đẹp hơn. Ngọn gió chiều thổi se sẻ hơn, nhưng nhẹ hơn bởi ngọn gió như ý thức được việc mình đang làm. Những cành hoang lả xuống trước ngọn gió xiêu xiêu nhưng cũng tự mình lả xuống để hòa hợp cùng ngọn gió. Từ cảnh vật ấy, nhà thơ nhìn lại chính lòng mình. Hóa ra điều kì diệu ấy cũng đang xẩy ra đến trong tâm hồn con người. “Lòng thu ý bạn”, đây là điều chỉ mới xảy ra lần thứ nhất trong đời. Một sự lắng nghe nhưng không lắng nghe bằng tai mà nghe bằng lòng người nói thà không nói bằng lời mà lại nói bằng ý, cho nên lòng ta nghe ý bạn. Đây là sự cảm thông, một sự hòa hợp tự nhiên của tâm hồn, không muốn, không đinh, mà vẫn xảy ra. Và kết quả của điều xảy ra ấy là một nỗi thương yêu. Xuân Diệu rất tinh tế khi dùng mấy tiếng “nỗi thương yêu" để xác định tâm trạng của mình. Đây không phải là yêu, là tình yêu, mà là thương yêu, một tình cảm về sự hòa hợp trọn vẹn, lại không phải là tình mà là nòi, một nỗi niềm xúc động, rung động cua trái tim, không dành riêng cho một đối tượng cá biệt nào cả, cũng không vì một mục đích ngẳn ngùi hay tư lợi nào. Từ nỗi thương yêu ấy nhà thơ muốn đi đến tột cũng tình cảm của mình. Lại cũng xảy ra điều rất lạ:
Em bước điềm nhiên không vướng chân,
Anh đi lững thững chẳng theo gần
Đã "điềm nhiên" lại còn “không vướng chân” hình như nhà thơ dùng từ hơi thừa thãi, nhưng đó chính là cách để nhà thơ muôn nhấn mạnh vào tâm trạng điềm nhiên, hoàn toàn vô tư của con người. Vì vậy với câu thơ tiếp theo, đã "đi lững đứng" lại còn "chẳng theo gần”. Rồi sang câu thơ mở đầu tác gỉa lại nhấn mạnh: Vô tâm. Nghĩa là giữa hai con ngươi, chưa một sự chuẩn bị nào, một mong muốn khát khao nào. Thế mà cái thu phai đón vần cứ đến, đến như một quy luật, như một lẽ binh thường của trời, trung cái khoảng không gian và thời gian đặc biệt của buổi chiều hôm nay
Anh và em như một cặp vần
Một cặp vần, ấy là sự hòa hợp trọn vẹn của ngôn từ và âm thanh để tạo nên cái điều kì diệu trong đời được gọi là thơ. Sư hòa hợp giữa hai tâm hồn ở đây là thư thế, trọn vẹn đến độ hoàn toàn. Xuân Diệu còn nhấn mạnh đây là sự hòa hợp của một cặp vần trong "một bài thơ dịu”. Sự hòa hợp ấy được nâng lên đến độ tuyệt dối.
Từ sự thay đổi của lòng mình, nhà thơ nhìn ra vạn vật xung quanh. Tất cả đều đổi thay như được chinh phục bởi một sức manh thần diệu. Vạn vật không còn vô tư, vô cảm nữa, vạn vật cũng có cảm xúc, có linh hồn, cũng biết yêu thương, xao động như con người. Từ một đám mây, một cánh cò, một cánh chim, một bông hoa, một giọt sương, tất cả đều có sự trăn trở bên trong:
Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần
Những đám mây đã bay hàng ngàn năm trong thơ cổ Việt Nam, trong thơ Đường, thơ Tống, nhưng chưa bao giờ có những đám mây “bay gấp gấp" như trong thơ Xuân Diệu. Những con cò đã từng bay hàng ngàn năm trên đồng ruộng Việt Nam, trong ca dao và thơ Việt Nam, chưa bao giờ có đôi cánh phân vân như trong thơ Xuân Diệu. Đây là cái náo nức, phân vân của một thế hệ mới, thế hệ các nhà thơ hiện đại, các nhà thơ trong phong trào Thơ Mới.
Thế là nhà thơ đang ngắm nghía cả bề rộng và bề sâu của trời đất, của vạn vật xung quanh, đã cảm nhận cá bề sâu làn bề rộng của lòng mình. Tự nhiên, như một sự tổng hợp tất yếu, sự kì diệu cuối cúng lại xảy ra nơi lòng con người:
Ai hay tuy lặng bước thu êm
Tuy chẳng búng nhăn gạ tô niềm
Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy
Lòng anh thôi đã cưới lòng em
Hình như bắt đầu vốn chàng có gì cả, không có một vật muốn chủ quan nào, cũng chẳng có một sự môi giới khách quan nào tác động. Con người bước đi êm ả giữa mùa thu. Chính nhà thơ cũng đã lấy làm lạ: Buổi chiều này nào có gì đâu! Nhà thơ gọi cái buổi chiều này là buổi “chiều hôm ngơ ngẩn”. Ngơ ngẩn nghĩa là thế nào? Nghĩa là rất vớ vẩn, rất bình thường, chẳng có gì đặc biệt đáng người ta quan tâm. Buổi chiều đẹp đến ngơ ngẩn lòng người'. Cũng không biết nữa, chỉ biết làng cái buối chiều ấy tạo nên sự lạ lùng:
Lòng anh thôi đã cưới lòng em
Anh cưới em! Không phải, lòng anh cưới lòng em. Từ “cưới" mà Xuân Diệu dùng ở đây, độc đáo đến lạ lùng, mới mẻ đến vô lí. Ngẫm nghĩ ra ta lại thấy nhà thơ có lí, lòng anh cưới lòng em, đó là sự hòa hợp hai tấm lòng, hai tâm hồn đến độ trọn vẹn. tuyệt đối, sự hòa hợp trong mức dộ cao nhất của cảm nhận về hạnh phúc. Từ “thôi” trong câu thơ này cũng rất lạ. “Thôi' nghĩa là thế nào? Nghĩa là đành vậy, đành phải chấp nhận như vậy, không còn cách nào khác, không thể từ chối được, không thế lẩn tránh được. Như vậy, cái việc lòng anh cưới lòng em, cái việc lòng anh hòa hợp với lòng em là việc tự nhiên, như của trời đất, con người không thể tạo ra, con người không thế chối bỏ.
Sao gọi là “thơ duyên"? Duyên vốn được coi như sự hòa hợp mà trời đất tạo ra. Xưa nay đã từng có chuyện:
Hữu duyên thiên lí năng tương ngộ
Vô duyên đối diện bất tương phùng
Cái duyên trong Thơ duyên của Xuân Diệu chính là cái duyên ấy, nhưng còn bao hàm một cái duyên lớn hơn, cái duyên của vũ trụ, của đất trời, của cuộc sống nói chung. Cái duyên ấy không phải lúc nào cũng có nhưng khi đã có thì nó tạo ra cho cuộc sống sự hài hòa đẹp vô cùng, kì diệu vô cùng. Không thể nói được thơ Xuân Diệu nghệ thuật vị nghệ thuật. Thơ Xuân Diệu là tình yêu cuộc sống, nó khiến ta biết yêu cuộc sống, biết quý trọng mọi vẻ đẹp của cuộc đời. Tất nhiên, khi biết yêu cuộc đời, con người ta phải biết góp phần làm cho cuộc đời trở nên đẹp hơn.
Lời kết
- Học xong bài Thơ duyên - Xuân Diệu, các em cần nắm:
+ Phân tích khung cảnh của một buổi chiều thu
+ Cảm nhận được sự hòa hợp trong tâm hồn của nhà thơ
+ Phân tích được vạn vật trong Thơ duyên trở nên có linh tính
Soạn bài Thơ duyên - Xuân Diệu Ngữ văn 10 tập 1 Chân Trời Sáng Tạo
Thơ duyên - Xuân Diệu là bài thơ về tình yêu, nhưng là tình yêu theo nghĩa rộng lớn, tình yêu đối với cuộc sống, đối với con người, đối với mọi vẻ đẹp, sự hòa hợp ở đời. Để nắm được nội dung và ý nghĩa của bài học này, các em có thể tham khảo bài soạn dưới đây:
Hỏi đáp bài Thơ duyên - Xuân Diệu Ngữ văn 10 tập 1 Chân Trời Sáng Tạo
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn HỌC247 sẽ sớm trả lời cho các em.
Một số văn mẫu bài Thơ duyên - Xuân Diệu Ngữ văn 10 tập 1 Chân Trời Sáng Tạo
Tác phẩm Thơ duyên - Xuân Diệu ca ngợi cái duyên, sự hòa hợp đến kì diệu xảy đến trong một buổi chiều thu. Để hiểu hơn về bài học này, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
-------------------(Đang cập nhật)-------------------
-- Mod Ngữ văn 10 HỌC247