YOMEDIA
NONE

Phân tích bài Nhớ rừng

Phân tích bài Nhớ rừng của nhà thơ Thế Lữ

Theo dõi Vi phạm
ADSENSE

Trả lời (2)

  • Nhớ rừng là một bài thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới.Thật sự, chỉ với bài thơ này,Thế Lữ đã có một chỗ đứng vững chắc trong nền thơ đang được nước nhà trào đón.Trong nhớ rừng tác giả đã khéo léo để thể hiện nỗi niềm của người con yêu có lòng nước thầm kín thông qua lời của một con hổ trong vườn bách thú, để thể hiện cuộc sông tầm thường giả dối ràng buộc của người dân đương đại.
    Phải, tầm thường, giả dối, ràng buộc, đó chính là những lời hổ ta nói về cuộc sống của mình. Trong cái cũi sắt chật hẹp ấy, chú nằm dài trông ngày tháng dần qua, khinh những con ngươì nhỏ bé láo toét, dám “dương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm”, phải “chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi” và “cặp báo chuồng bên vô tư lự”.Những con người xấu xa kia, những tửơng chú đã bị khuất phục…nhưng không nếu có dùng từ ngữ ầy thì chỉ có thể nói về thể xác của chú mà thôi đâu thể khuất phục được tâm hồn chú, bắt chú thôi nhớ về rừng, cái nơi giống hùm thiêng chú ngự trị.
    Chỉ một câu nói(ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ) thì đã lột tả đươc hết những nỗi niềm của hổ. Chú nhớ những gì ư? Chú nhớ thưở tung hoành hống hách, nhớ những lần bước chân lên dõng dạc đường hoàng. Trong con mắt của vị chua tể sơn lâm kia tất cả những gì chú thấy đều chỉ là tầm thường, kẻ bề tôi.
    Chú nhớ cái gì ư? Chú nhớ bộ tứ bình mỗi ngày hưởng lạc tưởng hổ không có tâm hồn thì thật là 1 sai lầm to lớn, mỗi lúc chú hóa thân vào những ngôi vị khác nhau.
    Có lúc vị chúa tể sơn lâm như một thi sĩ với tâm hồn bay bổng đêm đến say mồi đứng uống những giọt sương tan bên bờ suối lãng mạn, đẹp. Có những lúc hổ ta như 1 nhà hiền triết am hiểu thế giới đứng nhìn giang sơn mình đổi mới và thấy mình to lớn lắm. Rồi quay lại thực tại, quả thực 1 vị chúa sơn lâm cũng phải có lúc trự sung sướng đúng không? Vì thế hổ đã tự thưởng cho mình những giấc ngủ được đưa vào bởi tiếng chim ca. Bức tranh cuối cùng nhuốm toàn 1 màu đỏ, màu đỏ của máu, màu đỏ của hoàng hôn ở giữa đó, 1 vị chúa tể sơn lâm đang gầm gừ giương oai thì quả thực còn gì đẹp hơn. Vẻ đẹp của buổi chiều tà, vẻ đẹp của cái giống hùm thiêng, vẻ đẹp của núi rừng, vẻ bi đát của máu hòa quyện vào nhau.
    Thôi, ra khỏi đó thôi, để làm gì khi cứ nhớ mãi về quá khứ hổ ơi, quay lại đi, quay lại cái cuộc sống tù túng của mi đi, bên cạnh mi chỉ là những mô gò thấp kém, len dưới nách là dòng nước len giả suối. Có buồn không? Chán không? Nhưng nào đâu hổ bị khuất phục cung như những con người Việt Nam kiên cường bất khuất, dù 1 lúc phải chịu 2 vòng xiềng xích, cuộc sống mà không thể làm những gì mình mong muốn thì phải làm sao đây. Phải đứng lên đấu tranh chứ. Vì vậy mới có 2 bà Trưng cưỡi voi ra trận, mới có trận thãng oanh liệt ở Chi Lăng…..

      bởi Phạm Cao Viên 06/09/2018
    Like (0) Báo cáo sai phạm
  • YOMEDIA

    Video HD đặt và trả lời câu hỏi - Tích lũy điểm thưởng

  • Thế Lữ (1907-1989) là bút danh của Nguyễn Thứ Lễ. Làm thơ, viết truyện, viết kịch, làm đạo diễn. Chủ tịch Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. Phương diện nào ông cũng có thành tựu xuất sắc.

    Thế Lữ là thi sĩ tiên phong, được ngợi ca là "Đệ nhất thi sĩ' trong phong trào "Thơ mới" (1932-1941). Tác phẩm thơ: "Mấy vần thơ" thể hiện một "hồn thơ rộng mở”, với cảm hứng lãng mạn dào dạt, nồng nàn, say đắm và thiết tha.

    Bài thơ "Nhớ rừng'' được Thế Lữ viết năm 1934, in trong tập "May vần thơ” xuất bản năm 1935. Mượn lời con hổ bị nhốt ở vườn Bách thú, tác giả thể hiện tâm sự u uất, căm hờn và niềm khao khát tự do mãnh liệt của con người bị giam cầm, nô lệ.

    1. Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt.

    Bị nhốt "trong cũi sắt", căm hờn uất hận đã chứa chất thành "khối", "gậm' mãi mà chẳng tan, càng "gậm" càng cay đắng. Chỉ còn biết "nằm dài" bất lực, đau khổ. Bị "giễu", bị "nhục nhằn tù hãm", trở thành "thứ đồ chơi'' cho "lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ''. Đau khổ nhất là chúa sơn lâm nay bị tầm thường hóa, vị thế bị xuống cấp:

    "Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,

     Với cặp báo chuồng bên vô tự lự".

    Đó là một nét tâm trạng điển hình đầy bi kịch của chúa sơn lâm khi bị sa cơ, thất thế, bị giam cầm. Trong hoàn cảnh lịch sử đất nước ta khi bài thơ ra đời (1934) thì nỗi tủi nhục, căm hờn, cay đắng của con hổ cũng đồng diệu với bi kịch của nhân dân ta trong xích xiềng nô lệ sống trong tăm tối "nhơ nhuốc lầm than".

    2.  Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ.

    "Tình thương nỗi nhớm' sống mãi, chẳng bao giờ quên. Nhớ "thuở tung hoành...", "nhớ cành sơn lâm bóng cả cây già". Nhớ khúc nhạc rừng hùng tráng dữ dội. Chữ “ nhớ” chữ "với" và cách ngắt nhịp (4-2-2, 5-5, 4-2-2...) biến hoá, cân

    xứng đã làm dội lên nỗi nhớ tiếc khôn nguôi, nhớ cồn cào, nhớ da diết. Sự phong phú về nhạc điệu đã khắc họa đời sống nội tâm vô cùng mạnh mẽ của một nhân vật phi thường từng có một quá khứ oanh liệt. Một tấm thán "như sóng cuộn nhịp nhàng". Một bước chân cao sang đầy uy lực ''dõng dạc, đường hoàng". Một cặp "mắt thần" và khi "đã quắc"; "mọi vật đều im hơi". Một sức mạnh của uy quyền bất khả xâm phạm.

    Những vần thơ đầy nhạc điệu nói về nỗi nhớ:

    "Nhớ cánh sơn lâm bóng cà cây già

    Với tiếng giỏ gào ngàn, với giọng nguồn hét núi.

    Với khi thét khúc trường ca dữ dội

    Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,

    Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng

     Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc

    Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc

    Là khiến cho mọi vật đều im hơi..."

    Các động từ "gào, hét, thét" đặc tả khúc trường ca dữ dội của rừng núi, suối ngàn thiêng liêng, hùng tráng. Đó là những câu thơ tuyệt bút làm sang trọng cho

    Thơ mới

    "Ta nằm dài"... rồi "ta sống mãi trong tình thương nồi nhớ". Nhớ khi "ra bước chân lên...", nhớ một thời vàng son ngự trị:

    "Ta biết ta chúa tế cả muôn loài,

    Giữa chốn hào hoa không tên, không tuổi".

    Một chữ "ta" vang lên đầy kiêu hãnh tự hào. Chúa sơn lâm được miêu tả được khắc hoạ trong chiều sâu của tâm linh, trong chiều cao của uy quyền được khẳng định.

    Các câu hỏi tu từ liên tiếp xuất hiện như một nỗi niềm lay tỉnh và khêu gợi nỗi "nhớ' trào lên: "nào đâu những...", "đâu những ngày...", "đâu những bình minh...", "đâu những chiều...". Nhớ mãi không nguôi, nhớ đêm trăng và suối, nhớ những ngày mưa rừng, nhớ bình minh, nhớ giấc ngủ, nhớ tiếng chim ca. Và nhớ "những chiều lênh láng máu...". Đoạn thơ tráng lệ nói về bốn nỗi nhớ của chúa sơn lâm, nhớ triền miên ngày và đêm, sớm và chiều, mưa và nắng, thức và ngủ, lúc say mồi và lúc lặng ngắm, lúc đợi chờ... Một không gian nghệ thuật được tái hiện và mô tả qua bộ tứ bình của một nhà danh họa. Chúa sơn lâm có lúc mơ mộng giữa cảnh suối trăng, có lúc trầm ngâm trong chiêm nghiệm, có lúc nén xuống, kiên nhẫn đợi chờ để "tung hoành..." và "quắc mắt...”!

    Đoạn thơ 10 câu này là đoạn thơ hay nhất trong bài "Nhớ rừng”:

    "Nào đâu những đêm vùng bên bờ suối,

    Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan.'

    Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

    Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới

    Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,

    Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?

    Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng

     Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt

     Để ta chiếm lấy riêng phấn bí mật

    - Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?"

    Sau nỗi nhớ một thuở vàng son, một thời oanh liệt, bỗng chúa sơn lâm chợt tỉnh mộng, trở về thực tại với cái cũi sắt, đau đớn và cay đắng vô cùng. Như một trái núi sụp đổ xuống, mãnh hổ cất lời than. Sự kết hợp giữa cảm thán với câu hỏi tu từ làm dội lên một lời thơ, một tiếng than của "hùm thiêng sa cơ'', của một kẻ phi thường thất thế. Đó cũng là tiếng thở dài của một lớp người khao khát tự do ngày ấy:

    " Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?" 

    3.  Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu.

    Lại trở về nỗi buồn đau và nỗi nhớ "cảnh nước non hùng vĩ". Chỉ còn biết nhắn gửi thiết tha và bồn chồn:

     "Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!"

    "Nhớ rừng" là bài thơ tuyệt bút. Nó được xếp vào loại 10 bài thơ hay nhất của Thơ mới. Hình tượng tráng lệ, kì vĩ. Lối diễn tả và sử dụng ngôn ngữ biến hóa. Chất nhạc đa thanh và phức điệu tạo nên những vần thơ du dương. Thơ nên họa nên nhạc như cuốn hút và làm mê say hồn ta.

    Hình tượng chúa sơn lâm với nỗi nhớ rừng được nói đến với bao "lớp lớp sóng dồi". Trong nỗi đau sa cơ, thất thế có niềm kiêu hãnh tự hào. Bài thơ như một lời nhắn gửi thiết tha về tình yêu thương đất nước. Tư tưởng lớn nhất của bài thơ là nói lên cái giá tự do và khát vọng tự do.

    Like (0) Báo cáo sai phạm

Nếu bạn hỏi, bạn chỉ thu về một câu trả lời.
Nhưng khi bạn suy nghĩ trả lời, bạn sẽ thu về gấp bội!

Lưu ý: Các trường hợp cố tình spam câu trả lời hoặc bị báo xấu trên 5 lần sẽ bị khóa tài khoản

Gửi câu trả lời Hủy
 
NONE

Các câu hỏi mới

AANETWORK
 

 

YOMEDIA
AANETWORK
OFF