Nhận xét về các thành tựu văn hóa Việt Nam thời phong kiến?
Nhận xét về các thành tựu văn hóa Việt Nam thời phong kiến
Trả lời (1)
-
1. Về tư tưởng, tôn giáo.
- Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo vốn được du nhập vào nước ta từ thời Bắc thuộc ; sang thời kì độc lập, càng có điều kiện phát triển. Nho giáo dần dần trở thành hệ tư tưởng chính của giai cấp thống trị và là tư tưởng chi phối nội dung giáo dục, thi cử. Mặc dù vậy, từ thế kỉ X đến thế kỉ XIV, trong nhân dân ảnh hưởng của Nho giáo còn ít. Trong khi đó, Phật giáo lại giữ vị trí quan trọng và phổ biến. Từ vua đến quan và dân đều sùng đạo Phật, các nhà sư được triều đình coi trọng. Đạo giáo tồn tại song song với Nho giáo và Phật giáo. Một số đạo quán được xây dựng.
- Từ cuối thế kỉ XIV, Phật giáo và Đạo giáo suy giảm. Trong khi đó, ở thế kỉ XV, Nho giáo được nâng lên địa vị độc tôn, trở thành hệ tư tưởng chính thống của nhà nước phong kiến thời Lê sơ. Sự phát triển của giáo dục Nho học cũng góp phần củng cố vị trí của Nho giáo.
- Từ thế kỉ XVI, Nho giáo suy thoái dần, tôn ti trật tự phong kiến không còn được tôn trọng như thời Lê sơ, thi cử không còn nghiêm túc như trước. Phật giáo, Đạo giáo có điều kiện khôi phục vị trí nhưng không được như thời Lý-Trần, nhiều chùa, quán được xây dựng, một số chùa được trùng tu lại.
- Cùng với sự phát triển kinh tế hàng hóa, từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII, nhiều giáo sĩ đạo Thiên Chúa phương Tây theo các thuyền buôn nước ngoài vào Đại Việt để truyền bá đạo Thiên Chúa ở cả hai Đàng, nhà thờ Thiên Chúa giáo mọc lên nhiều nơi, đạo Thiên Chúa trở thành tôn giáo lan truyền trong cả nước. Do nhu cầu truyền đạo, chữ Quốc ngữ theo mẫu tự Latinh cũng ra đời ở thế kỉ XVII, tuy nhiên bấy giờ chữ Quốc ngữ chưa được phổ cập, phải đến thế kỉ XX, chữ Quốc ngữ mới sử dụng phổ biến.
- Các tín ngưỡng truyền thống trong dân gian vẫn được duy trì, phát huy và tôn trọng như tục thờ cúng tổ tiên, các anh hùng có công với làng với nước, các đền thờ, lăng miếu được xây dựng ở nhiều nơi. Nhà Nguyễn chủ trương độc tôn Nho giáo, hạn chế các hoạt động của các tôn giáo, đặc biệt là Thiên Chúa giáo.
2. Về giáo dục
- Từ thế kỉ XI đến thế kỉ XV, giáo dục Đại Việt từng bước được hoàn thiện và phát triển, nội dung học tập quy định chặt chẽ, trở thành nguồn đào tạo quan lại chủ yếu của đất nước. Năm 1070, vua Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu. Năm 1075, tổ chức khoa thi quốc gia đầu tiên tại kinh thành. Sang thời Trần, giáo dục, thi cử quy định chặt chẽ hơn. Thời Lê sơ, nhà nước quy định cứ 3 năm tổ chức một kì thi Hội để chọn Tiến sĩ. Trong dân gian số người đi học ngày càng đông, số người đỗ đạt cũng tăng thêm nhiều. Thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497), đã tổ chức 12 khoa thi Hội có 501 người đỗ Tiến sĩ. Năm 1484, nhà nước quyết định ghi tên dựng bia Tiến sĩ. Nhiều tri thức tài giỏi đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng, bảo vệ đất nước. Tuy nhiên giáo dục nho học không tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế đất nước.
- Năm 1527, nhà Mạc thành lập, tiếp tục phát triển giáo dục, tổ chức đều đặn các kì thi Hương, thi Hội để tuyển chọn nhân tài, tổ chức được 22 kì thi Hội lấy được 485 Tiến sĩ. Đến nhà Lê - Trịnh, cũng cố gắng tiếp tục mở rộng giáo dục Nho học theo chế độ thời Lê sơ, tổ chức nhiều khoa thi nhưng số người đi thi và đỗ đạt không còn nhiều như trước. Ở Đàng Trong, năm 1646 chúa Nguyễn mở khoa thi đầu tiên theo cách riêng, việc học hành không câu nệ sách vở, khuôn sáo. Các chúa Nguyễn coi trọng khả năng thực tế và thi cử không phải là con đường tuyển quan lại duy nhất.
- Đến triều Tây Sơn, với chính sách chăm lo giáo dục của vua Quang Trung, chữ Nôm được sử dụng trong công việc hành chính, thi cử. Mặc dù vậy, nội dung giáo dục chủ yếu vẫn là kinh sử, các bộ môn khoa học tự nhiên ít được chú ý. Đầu thế kỉ XIX, nhà Nguyễn tiếp tục củng cố giáo dục Nho học. Các kì thi Hương, thi Hội vẫn được tổ chức đều đặn.
3. Về văn học
- Giáo dục Đại Việt thế kỉ X đến thế kỉ XV phát triển, đã góp phần hình thành và phát triển văn học dân tộc. Ban đầu nội dung văn học mang nặng tư tưởng Phật giáo, từ thời Trần nền văn học dân tộc ngày càng phát triển. Công cuộc xây đựng, bảo vệ đất nước chống ngoại xâm đã trở thành nguồn đề chính của các bài thơ, phú và hịch như “Nam quốc sơn hà”; “Hịch tướng sĩ”; “Bạch Đằng giang phú”; “Bình Ngô Đại Cáo”;v.v...cùng hàng loạt tập thơ chữ Hán ra đời, vừa thể hiện tài năng văn học vừa toát lên niềm tự hào dân tộc và lòng yêu nước sâu sắc. Thời Lê sơ, đânhs dấu bước phát triển cao của nền văn học. Cùng văn học chữ Hán, văn học chữ Nôm đều phát triển, các tập thơ Nôm ra đời như “Hồng Đức quốc âm thi tập” của vua Lê Thánh Tông, “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi;...
- Từ thế kỉ XVI, Nho giáo suy thoái, văn học chữ Hán không còn vị thế như thời Lê sơ. Tuy vậy văn học chữ Nôm phát triển và chiếm vị trí quan trọng, xuất hiện nhiều nhà thơ Nôm nổi tiếng với nhiều tác phẩm đặc sắc như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Đào Duy Từ,... Văn học dân gian phát triển rầm rộ, với tài năng của mình nhân dân đã sáng tác hàng loạt ca dao, tục ngữ, truyện cười, truyện dân gian..., thể hiện ước mơ về cuộc sống tự do, thanh bình của người dân lao động.
- Nửa đầu thế kỉ XIX, văn học chữ Nôm ngày càng phong phú và hoàn thiện. Xuất hiện nhiều tác phẩm văn học chữ Nôm xuất sắc như Truyện Kiều của Nguyễn Du, các bài thơ của Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan...
4. Về nghệ thuật
- Từ thế kỉ X, nghệ thuật cũng có bước phát triển mới. Nghệ thuật kiến trúc bắt đầu phát triển, với nhiều công trình nghệ thuật Phật giáo được xây dựng như chùa Một Cột (Diên Hựu), chùa Dâu, chùa Phật Tích, tháp Báo Thiên, tháp Phổ Minh, kinh đô Thăng Long được xây dựng thời nhà Lý, thành nhà Hồ được xây dựng cuối thế kỉ XIV là những công trình nghệ thuật kiến trúc tiêu biểu và đặc sắc ở nước ta. Ngoài ra ở phía Nam, các đền, tháp Chăm cũng được xây dựng mang phong cách nghệ thuật đặc sắc. Nghệ thuật điêu khắc với nhiều tác phẩm có họa tiết đặc sắc, độc đáo như rồng mình trơn cuộn trong lá đề, bông cúc nhiều cánh bệ chân cột hình hoa sen nở,... cùng nhiều bức phù điêu có hình các cô tiên, các vũ nữ vừa múa vừa đánh đàn,... Nghệ thuật sân khấu như tuồng, chèo ngày càng phát triển. Múa rối nước là một loại hình nghệ thuật đặc sắc, phát triển từ thời Lý.
- Trong các thế kỉ XVI - XVIII, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc tiếp tục phát triển, thể hiện ở các chùa mới được xây dựng như chùa Thiên Mụ (Huế), tượng Phật ở các chùa... Nghệ thuật dân gian được hình thành trong các công trình điêu khắc và kiến trúc. Nghệ thuật sân khấu phát triển ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài với nhiều phường tuồng, chèo ở các làng, các làn điệu dân ca ở các địa phương.
- Thế kỉ XIX, Nhã nhạc cung đình Huế đã trở thành món ăn tinh thần của giới quý tộc thượng lưu. Các loại hình ca múa nhạc dân gian tiếp tục phát triển trong nhân dân với các làng điệu dân ca đặc trưng của từng vùng miền. Cùng với các điệu ca, điệu múa còn có các trò chơi dân gian như đấu vật, đua thuyền, đá cầu,... Thế kỉ XVII, nghệ thuật sân khấu phát triển ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài như tuồng, chèo, múa rối,...
5. Về khoa học - kĩ thuật
- Thế kỉ X đến thế kỉ XV, nhiều ngành khoa học – kĩ thuật phát triển đạt nhiều thành tưu có giá trị cao như “Đại Việt sử kí” của Lê Văn Hưu (thời Trần), “Lam Sơn thực lục”, “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, “Hồng Đức bản đồ” thời vua Lê Thánh Tông. Nhà Nguyễn lập Quốc sử quán và biên soạn nhiều công trình như “Đại Nam thực lục”,... ngoài ra còn có các bộ sử do các cá nhân biên soạn như “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú, “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức,... Thế kỉ XV, một số công trình nghiên cứu khoa học tự nhiên được biên soạn như “Đại thành toán pháp” của Lương Thế Vinh, “Lập thành toán pháp” của Vũ Hữu,... Về quân sự, có “Binh thư yếu lược”, “Vạn kiếp tông bí truyền thư” của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Đầu thế kỉ XV, Hồ Nguyên Trừng đã chế tạo súng thần cơ, thuyền chiến có lầu.
- Thế kỉ XVI - XVIII, số công trình khoa học tăng lên. Sử học có nhiều bộ sử như “Ô châu cận lục”, “Đại Việt thông sử”..., địa lí học có tập bản đồ “Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư”, quân sự có tập “Hổ trướng khu cơ” của Đào Duy Từ,... Do những hạn chế về quan niệm và giáo dục đương thời, khoa học tự nhiên vẫn chưa có điều kiện phát triển. sSVề kĩ thuật, một số kĩ thuật phương Tây du nhập vào nước ta và bước đầu hình thành, phát triển phục vụ nhu cầu quốc phòng như kĩ thuật đúc súng đại bác, đóng thuyền máy, xây thành lũy,... Nghề làm đồng hồ ra đời đã chứng tỏ sự khéo léo và khả năng sáng tạo của người Việt.
bởi Đặng Vỹ 14/11/2018Like (0) Báo cáo sai phạm
Nếu bạn hỏi, bạn chỉ thu về một câu trả lời.
Nhưng khi bạn suy nghĩ trả lời, bạn sẽ thu về gấp bội!
Lưu ý: Các trường hợp cố tình spam câu trả lời hoặc bị báo xấu trên 5 lần sẽ bị khóa tài khoản
Các câu hỏi mới
-
so sánh chữ viết văn học ấn độ cổ trung đại và trung hoa cổ trung đại
23/11/2022 | 0 Trả lời
-
01/12/2022 | 1 Trả lời
-
01/12/2022 | 1 Trả lời
-
01/12/2022 | 1 Trả lời
-
01/12/2022 | 1 Trả lời
-
01/12/2022 | 1 Trả lời
-
01/12/2022 | 1 Trả lời
-
02/12/2022 | 1 Trả lời
-
01/12/2022 | 1 Trả lời
-
01/12/2022 | 1 Trả lời
-
01/12/2022 | 1 Trả lời
-
01/12/2022 | 1 Trả lời
-
01/12/2022 | 1 Trả lời
-
01/12/2022 | 1 Trả lời
-
02/12/2022 | 1 Trả lời
-
01/12/2022 | 1 Trả lời
-
01/12/2022 | 1 Trả lời
-
01/12/2022 | 1 Trả lời
-
01/12/2022 | 1 Trả lời
-
02/12/2022 | 1 Trả lời
-
01/12/2022 | 1 Trả lời
-
02/12/2022 | 1 Trả lời
-
01/12/2022 | 1 Trả lời
-
02/12/2022 | 1 Trả lời
-
01/12/2022 | 1 Trả lời