YOMEDIA
NONE

Thuyết minh về chùa Bái Đính

Các bạn làm hộ mình đề này được không ạ
"Thuyết minh về chùa Bái Đính "
#Camonnhieulama !!

Theo dõi Vi phạm
ADSENSE

Trả lời (3)

  • Chùa Bái Đính hay Khu văn hóa tâm linh núi chùa Bái Đính là tên một quần thể chùa nằm trên núi Bái Đính ở xã Gia Sinh, Gia Viễn, Ninh Bình. Quần thể chùa này gồm một khu chùa cổ và một khu chùa mới dự kiến xây dựng xong vào năm 2010. Nơi đây không chỉ đơn thuần là một khu chùa thờ Phật tổ, thờ Thần núi và Chúa Thượng Ngàn mà còn gắn với lễ tế cờ khi vua Quang Trung ra Thăng Long đại phá quân Thanh. Chùa Bái Đính cổ được phát hiện bởi đức thánh Nguyễn Minh Không, ông là người đã biến các hang động thành chùa khi đến đây tìm cây thuốc chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông. Bái Đính còn là một di tích cách mạng thuộc chiến khu Quỳnh Lưu.

    Chùa Bái Đính

    Dự án mở rộng núi chùa Bái Đính thành một khu chùa nằm trong các hạng mục bảo tồn tôn tạo và phát huy giá trị lịch sử của khu di tích cố đô Hoa Lư,sẽ hoàn thành vào năm 2010 để phục vụ đại lễ 1000 năm Hoa Lư-Thăng Long-Hà Nội. Khi hoàn thành, đây được xem là khu chùa có quy mô lớn nhất Việt Nam. Tương lai, nơi đây trở thành một khu văn hóa tâm linh hấp dẫn với nhiều kỷ lục Việt Nam và khu vực. Kiến trúc hoành tráng, đồ sộ nhưng đậm chất á đông của chùa Bái Đính phù hợp với tâm lý hiếu kỳ, tò mò của người Việt hiện đại. Chính vì vậy mà nơi đây sớm trở thành một điểm đến có “tiếng vang”. Chùa Bái Đính được các báo giới nhắc đến như là một siêu chùa, ngôi chùa lớn nhất Đông Nam Á, khu chùa kỷ lục Việt Nam,trung tâm Phật giáo tương lai…

    Mặc dù đang trong quá trình xây dựng nhưng chùa Bái Đính đã thu hút khá đông du khách về thăm quan, chiêm bái. Chùa khánh thành giai đoạn 1 vào ngày 17 tháng 5 năm 2008 nhân dịp cùng với khu di tích Yên Tử, vịnh Hạ long (Quảng Ninh) đón đoàn đại biểu các nước về chiêm bái trong chương trình đại lễ Phật Đản thế giới lần đầu tiên diễn ra tại Việt Nam

    Khu chùa Bái Đính mới và toàn cảnh chùa nhìn từ xa

    Chùa Bái Đính mới (Bái Đính tân tự) có diện tích rộng 700 ha, gồm các hạng mục: tam quan nội, tháp chuông, điện Quan Thế Âm Bồ Tát, chùa Pháp Chủ, điện Tam Thế, hành lang La Hán, giếng ngọc. Đến giai đoạn 2, khu chùa Bái Đính sẽ mở rộng hết diện tích 700 ha, thêm các công trình: tháp Bồ Đề 9 tầng, khu thờ Mẫu, khu thờ Tổ, khu tháp mộ sư, khu nhà tăng thiền viện, khu nhà khách, khu bảo tàng Phật giáo Việt Nam, v.v.

    Tam quan nội

    Xây dựng toàn bằng gỗ tứ thiết cao tới đỉnh 16,5 m. Điều độc đáo là có 4 cột cái bằng gỗ tứ thiết, mỗi cột cao 13,85 m, đường kính 0,85 m, nặng khoảng 10 tấn. Tam quan có 3 tầng mái uốn cong ở bốn phía, lợp bằng ngói men ống Bát Tràng màu nâu sẫm. Đây là một tam quan lớn, đồ sộ, đều dựng bằng gỗ. Trong tam quan đặt 10 tượng Hộ Pháp bằng đồng, có hai tượng lớn, mỗi tượng cao 5,5 m, nặng 12 tấn.

    Chuông lớn tại chùa Bái Đính

    Tháp chuông được xây dựng bằng bê tông cốt thép giả gỗ, kiến trúc theo kiểu tháp chuông cổ, hình bát giác, cao 22 m. Đường kính trong tháp là 17 m, tính phủ bì đến chân đế đường kính là 49 m. Tháp chuông cao 3 tầng, có 3 tầng mái cong, gồm 24 mái với 24 mái đao cong vút lên. Tháp chuông treo một quả chuông nặng 36 tấn đúc tại Huế. Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đã cấp bằng “Xác nhận kỷ lục”: “Đại hồng chung lớn nhất Việt Nam (Phá kỷ lục Việt Nam)”, ngày 12 tháng 12 năm 2007.

    Điện Quan Thế Âm Bồ Tát

    Xây dựng toàn bằng gỗ tứ thiết, 100% kiến trúc bằng gỗ. Điện cao 14,8 m, dài 41,8 m, rộng 17,4 m, gồm 7 gian. Gian giữa của điện, trên bệ cao, đặt tư­ợng Quan Thế Âm Bồ Tát, có gần 1.000 mắt và 1.000 tay, đúc bằng đồng, nặng 80 tấn, cao 9,57 m. Đây cũng là một pho tượng Quan Thế Âm Bồ Tát bằng đồng lớn nhất ở Việt Nam.

    Chùa Pháp Chủ

    Xây dựng toàn bằng bê tông cốt thép giả gỗ rất đồ sộ, hoành tráng, cao 30 m, chiều dài 47,6 m, chiều rộng 43,3 m, gồm 2 tầng mái cong. Điện có 5 gian, gian giữa rất rộng dài đến 13,5 m, 4 gian hai bên, mỗi gian dài 8 m. Điều đặc biệt ở chùa Pháp chủ là ở gian giữa trên bệ cao, đặt một pho tượng lớn bằng đồng nguyên khối, cao 10 m, nặng 100 tấn. Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam cấp bằng “Xác nhận kỷ lục”: “Pho tượng Phật Thích Ca bằng đồng cao và nặng nhất Việt Nam” ngày 4 tháng 5 năm 2006. Trong điện treo 3 bức hoành phi và 3 cửa võng. Đây là bức hoành phi và cửa võng lớn nhất Việt Nam, mới chỉ có ở chùa Bái Đính.

    Điện Tam Thế

    Tọa lạc ở trên đồi cao, so với mặt nước biển là 76 m. Đây là một toà rất cao, rộng, đồ sộ, hoành tráng nhất ở khu chùa Bái Đính. Tòa nằm trên đồi cao nhất vùng, cao tới 34 m, dài 59,1 m, rộng hơn 40 m, diện tích trong nhà khoảng 3.000 m2. Trong điện Tam Thế cũng treo 3 bức hoành phi và 3 cửa võng lớn và đặt 3 pho tượng Tam Thế bằng đồng nguyên khối, mỗi tượng cao 7,2 m, nặng 50 tấn. Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đã cấp bằng “Xác nhận kỷ lục”: “Ngôi chùa có bộ tượng Tam Thế bằng đồng lớn nhất Việt Nam”, ngày 12 tháng 12 năm 2007

    Hành lang La Hán

    Gồm 234 gian, ở hai phía Đông Tây, có chiều dài 1.052 m. Trong các gian nhà hành lang đó đặt 500 tượng La Hán bằng đá nguyên khối to, mỗi tượng cao 2,4 m, nặng khoảng 4 tấn, do bàn tay các nghệ nhân làng nghề đá xã Ninh Vân, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình chế tác. Ở Việt Nam chưa có một ngôi chùa nào có nhiều tượng La Hán bằng đá như ở chùa Bái Đính.

    Khu văn hóa tâm linh núi chùa Bái Đính

    Giếng ngọc

    Đó là giếng ngọc của chùa Bái Đính cũ được xây dựng lại nằm gần chân núi Bái Đính mà cách đây gần 1.000 năm Thiền sư Nguyễn Minh Không đã lấy n­ước để sắc thuốc chữa bệnh cho dân và chữa bệnh cho Thái tử Dương Hoán. Giếng xây lại hình mặt nguyệt, rất rộng, có đường kính 30 m, độ sâu của n­ước là 6 m, không bao giờ cạn nước. Miệng giếng xây lan can đá. Khu đất xung quanh giếng hình vuông, có diện tích 6.000 m², 4 góc là 4 lầu bát giác. Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đã cấp bằng “Xác nhận kỷ lục”: “Ngôi chùa có giếng lớn nhất Việt Nam”, ngày 12 tháng 12 năm 2007

    Hang tối ở chùa Bái Đính cổ

    Chùa Bái Đính cổ (Bái Đính cổ tự) nằm cách Điện tam thế của khu chùa mới khoảng 800 m men theo sườn núi. Khu chùa này nằm giữa một vùng rừng núi khá yên tĩnh. Lên thăm hang động ở núi Bái Đính, bước trên 300 bậc đá. Lên hết dốc là tới ngã ba: Bên phải là động thờ Phật, bên trái là động thờ Tiên. Phía trên cửa động Phật có 4 chữ đại tự khắc trên đá có nghĩa là: “Lưu Danh Thơm Cảnh Đẹp”. Động dài 25m, rộng 15m, cao trung bình là 2m, nền và trần của động bằng phẳng. Tương truyền rằng nơi đây, Ông Nguyễn Minh Không đi tìm cây thuốc đã phát hiện ra hang động này đã dựng chùa thờ phật. Đi tiếp theo ngách đá bên trái cuối động sẽ dẫn tới một cửa hang sáng và rộng, một thung lũng xanh hiện ra. Trở lại ngã ba đầu dốc, theo đường rẽ trái khoảng 50m là tới Động Tiên (Hang Tối). Động Tiên lớn hơn động Phật nhiều lần, gồm 7 “buồng” tức là 7 hang, có hang trên cao, có hang ở dưới sâu, các hang đều thông nhau qua nhiều ngách đá, có hang nền bằng phẳng, có hang nền trũng xuống như lòng chảo, có hang trần bằng, có hang được tạo hoá ban tặng cho một trần nhũ đá rủ xuống muôn hình vạn trạng... Bà Chúa Thượng Ngàn được đặt thờ giữa hang chính với các tượng bằng đá được sơn son thiếp vàng.

    Đền thánh Nguyễn được xây dựng gần ngã ba đỉnh núi, trong đền có tượng của ông được đúc bằng đồng.

    Lễ hội chùa Bái Đính

    Ngày mồng 6 tháng giêng là khai hội chùa Bái Đính. Lễ hội chùa Bái Đính sẽ diễn ra trong suốt mùa xuân. Trước ngày mở hội, trong thời gian đón tết, tất cả các động, chùa trên núi Bái Đính đều khói hương nghi ngút, cờ hội được treo lên khiến không khí lễ hội bao trùm cả vùng quê chiêm trũng. Về phần lễ ở chùa Bái Đính diễn ra tương đối trang trọng vì ở đây không chỉ thờ các vị sơn thần, phật tổ, bà chúa thượng ngàn mà còn gắn với nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc với các danh nhân đức Thánh Nguyễn, Quang Trung, Đinh Bộ Lĩnh. Phần lễ ở chùa Bái Đính gồm tổng hòa toàn thể hệ thống tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam; có sự sùng bái tự nhiên, có Đạo, có Phật và có cả Nho.

    Du khách đến lễ hội chùa Bái Đính còn có thể leo núi thăm hang, với đông đảo mọi người tham gia và hưởng ứng. Cuộc hành hương ấy tạo ra trong con người tâm lý kỳ vọng, sự thanh thản trong tâm hồn và đức hướng thiện. Các hoạt động hội diễn ra sôi động với đấu vật, ném còn, đánh bài, kéo co, các trò chơi dân gian ngày tết...

    Những kỷ lục Việt Nam

    Chùa Bái Đính được báo giới biết đến là một ngôi chùa nổi tiếng với những kỷ lục được xác lập bởi trung tâm kỷ lục Việt Nam. Những kỷ lục của chùa Bái Đínhđược xác lập gồm:

    Khu chùa có diện tích rộng nhất Việt Nam: 107ha. Điện thờ Tam Thế và Pháp Chủ có diện tích lên tới 1.000 m2.

    Tượng Phật bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á: Tượng Phật Tổ Như Lai nặng 100 tấn. Ba pho Tam Thế mỗi pho nặng 50 tấn.

    Hai quả chuông lớn nhất Đông Nam Á: 36 và 27 tấn.

    Chùa có nhiều tượng La Hán nhất Việt Nam với 500 vị bằng đá cao khoảng 2m.

    Kỷ lục về số cây bồ đề nhiều nhất Việt Nam với 100 cây bồ đề được chiết từ cây bồ đề Ấn Độ

    Khu chùa có giếng lớn nhất Việt Nam.

      bởi Nguyễn Thị Kim Nguyên 19/09/2018
    Like (0) Báo cáo sai phạm
  • YOMEDIA

    Video HD đặt và trả lời câu hỏi - Tích lũy điểm thưởng

  • Khu tâm linh núi chùa Bái Đính nằm trong Quần thể Danh thắng Tràng An, cách thành phố Ninh Bình khoảng 15 km, nằm ở phía Tây khu di tích lịch sử cố đô Hoa Lư, là ngôi chùa lớn nhất Việt Nam, được biết đến với nhiều kỷ lục như tượng Phật bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á, chuông đồng lớn nhất Đông Nam Á, hành lang có nhiều tượng Phật nhất…là sự tiếp nối tâm linh từ ngàn năm trước chuyển tiếp đến ngàn năm sau.

    Với kiến trúc đồ sộ, nguy nga, lộng lẫy, những pho tượng có nét uy nghi, bao dung, nghệ thuật chạm khắc, đúc đồng tinh tế, tài tình cùng cảnh quan hùng vĩ, núi gối đầu sông, mây vờn đỉnh núi, không gian tâm linh thanh tịnh bao trùm khiến mỗi khi bước chân đến đây, người người thư thái, lòng sáng, tâm tịnh, hướng đến Chân - Thiện – Mỹ.

    Đặt chân đến Bái Đính, ta có thể chiêm ngưỡng ngay trước mắt Tam Quan hoành tráng cao gần 17 mét. Đây chính là ranh giới giữa cõi thiêng và cõi tục. Chỉ cần bước chân qua Tam Quan, người ta có thể hòa mình vào không gian tâm linh thanh tịnh. Tiếp đó là chuông đồng nặng 36 tấn, được treo trên tháp cao với tiếng ngân vang vọng, lan tỏa khắp nơi, xua tan mọi nỗi thống khổ, cảnh tỉnh chúng sinh.

    Hành lang dài với 500 vị La Hán, là con đường đưa ta đến gần với cõi Phật. Các pho tượng Quan Thế Âm Bồ Tất, Phật Thích Ca Mâu Ni bằng đồng lớn nhất Việt Nam mang trên mình bao nét uy nguy, bác ái, đem niềm tin về những điều thiện gieo vào lòng người. Một công trình kiến trúc đồ sộ, tinh tế được đặt giữa chốn bồng lai tiên cảnh. Nhìn từ xa, khu chùa Bái Đính như đang tựa mình bên sườn đồi xanh thẳm. Cảnh sắc lung linh huyền ảo cùng không gian thiêng rộng lớn đã đưa Bái Đính trở thành một bức tranh tâm linh vừa tuyệt mĩ, vừa cổ kính.

    Nói đến Bái Đính là nói đến vùng đất “địa linh – nhân kiệt”. Đây là nơi mà Quốc sư Nguyễn Minh Không thời nhà Lý tu Phật và hành lễ trên đỉnh núi rồi đặt tên cho núi, cho chùa. Dấu chân của đức Thánh Nguyễn dày đặc khắp các nơi. Ông sinh ra tại huyện Gia Viễn, Ninh Bình. Sinh thời, Nguyễn Minh Không là một thầy thuốc tài ba bậc nhất, là một nhà sư tài cao đức trọng. Ông đã phát hiện ra nơi tiên cảnh, núi lại hướng về phía Tây như chầu về đất Phật, rừng núi mênh mông với muôn vàn cây thuốc quý. Và ông đã dừng lại nơi đây để tu hành và biến nơi đây thành “vườn sinh dược” (có nghĩa là vườn thuốc quý) để cứu sinh độ thế muôn dân. Ông đã trực tiếp bốc thuốc chữa bệnh cho chúng sinh nhờ vào những loại thuốc quý có sẵn nơi đây và một số loại ông đưa từ nơi khác về trồng. Qua đây, ta có thể thấy sự nghiệp tu hành của đức Thánh Nguyễn gắn liền với “cứu nhân độ thế”. Ông còn được coi là thần y khi chữa bệnh “hóa hổ” cho nhà vua Lý Thần Tông (1128-1138). Lưu truyền rằng: Khi sư Đạo Hạnh sắp trút xác, bèn đem thuốc và thần chú giao cho Nguyễn Minh Không và căn dặn “20 năm sau nếu thấy Quốc Vương bị bệnh nặng thì đến chữa ngay”. Sau khi thiền sư Đạo Hạnh hóa đầu thai là Dương Hoán, được Vua Nhân Tông yêu quý lập làm Hoàng Thái tử và kế vị ngai vàng tức Lý Thần Tông hoàng đế. Lên ngôi không được bao lâu, tháng 3 năm 1136 Vua Lý Thần Tông bệnh nặng, mình mọc đầy lông lá, tiếng như hổ gầm, quan quân vô cùng sợ hãi. Các danh y tài giỏi từ khắp nơi được triệu đến chữa bệnh cho vua nhưng bệnh tình không hề thuyên giảm. Khi đó trong dân gian, xuất hiện bài đồng dao của lũ trẻ chăn trâu rằng:

    “Bổng bồng bông, tập tầm vông

    Ở làng Điềm xá, có Nguyễn Minh Không

    Chữa được bệnh cho Đức Thần Tôn”

    Nguyễn Minh Không lúc bấy giờ đang tu hành ở núi chùa Bái đính, được mời về Kinh đô để chữa bệnh cho nhà vua. Khi đến nơi, ai ai cũng nhìn ông với ánh mắt nghi ngờ, có người dè bỉu vì vẻ bề ngoài quê mùa của ông, Nguyễn Minh Không liền lấy một cái đinh lớn, dài hơn 5 tấc đóng sâu vào chiếc cột lim rồi nói: “Ai rút được chiếc đinh này ra thì người đó sẽ chữa được bệnh cho nhà vua”. Tất cả các danh y dù trong lòng có chút nghi ngờ nhưng vẫn tranh nhau mặc sức nhổ chiếc đinh đó, nhưng không tài nào nhổ được. Lúc đó, Nguyễn Minh Không chỉ dùng hai ngón tay kẹp lại, rồi nhẹ nhàng nhổ nhẹ chiếc đinh ra khỏi cột, khiến cho mọi người không khỏi khiếp phục.

    Tiếp đó, ông sai lấy một vạc dầu lớn đun sôi, thả vào đó một trăm chiếc kim và hỏi: “Có ai dùng tay lấy đủ 100 chiếc kim trong này ra không?”. Tất cả đều rùng mình lắc đầu không dám. Ông liền thò tay vào vạc dầu đang sôi sùng sục, quậy lên khoảng ba bốn lần rồi vớt đủ 100 cái kim. Sau đó, Nguyễn Minh Không lấy nước dầu sôi tắm cho nhà vua, lấy kim châm vào các huyệt, dầu dội đến đâu, lông lá trút hết đến đó. Bệnh liền bớt ngay. Nhà vua, các quan thần cũng như những người có mặt ở đó vô cùng kính phục trước tài phép của Nguyễn Minh Không.

    Sau khi khỏi bệnh, cảm phục tài năng, Vua Lý Thần Tông phong ông là Quốc sư, tha thuế dịch cho vài trăm hộ. Ông trở thành vị cao tăng đứng đầu của triều đại nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, cũng là người đầu tiên áp dụng phương pháp chữa bệnh bằng thuốc Nam và châm cứu. Là một nhân vật có thật, có nhiều công lớn chữa bệnh cho vua và nhân dân nhưng đôi khi có những “hành trạng” kỳ bí, thực thực hư hư nên người Việt tôn sùng ông là đức Thánh Nguyễn.

    Không chỉ là một danh y nổi tiếng mà Nguyễn Minh Không còn được mệnh danh là ông tổ nghề đúc đồng. Ông chính là người góp phần tạo nên “Tứ đại khí” nổi tiếng ở nước ta thời nhà Lý là Tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, tượng Phật Quỳnh Lâm, và vạc Phổ Minh. Tương truyền rằng, ông một mình sang Trung Quốc để chữa bệnh cho Thái tử con vua phương Bắc. Được vua thưởng cho nhiều vàng, bạc, châu báu nhưng Nguyễn Minh Không chỉ xin một ít đồng đựng đầy túi ba gang của mình. Nhà vua nhìn thấy chiếc túi của ông, liền đồng ý, cho phép ông vào kho lấy đồng. Kỳ lạ thay, ông đã thu hết cả mười kho đồng mà vẫn chưa đầy túi ba gang. Sau đó, ông mang túi đồng xuống thuyền để về nước, nhưng không chiếc thuyền nào chịu nổi sức nặng của lượng đồng ông mang theo. Do đó, ông bèn cưỡi nón tu lờ thay cho thuyền để xuôi về quê hương. Về nước, Nguyễn Minh Không đã mang lượng đồng gom được từ Bắc quốc, đúc thành bốn vật báu quý giá của nước ta: Tháp Báo Thiên cao 20 trượng; gồm 12 tầng với đỉnh tháp hoàn toàn bằng đồng, các tầng còn lại được chạm khắc tinh tế bằng gạch, đá; chuông Quy Điền nặng gần 8 tấn đồng; tượng Phật Quỳnh Lâm cao tới sáu trượng, vạc Phổ Minh sâu tới 4 thước. Ông là người có công lao to lớn, đóng góp hết sức tích cực vào công cuộc phát triển văn hóa dân tộc Việt về các mặt: Y học, kiến trúc mỹ nghệ, là nền tảng cho sự phát triển bền vững của văn hóa Việt Nam, truyền từ đời này sang đời khác. Mang trong mình lòng khâm phục và sự biết ơn, người dân Ninh Bình, Nam Định cũng như một số tỉnh thành khác đã đúc tượng, lập đền thờ để đức Thánh Nguyễn trường tồn mãi cùng thời gian.

    Có thể nói Bái Đính là nơi hội tụ của linh khí núi sông, của tâm linh dân tộc và của nhân kiệt xuất chúng. Thiên nhiên tạo hóa đã ưu ái ban tặng cho những người con Ninh Bình phong cảnh sơn thủy kỳ tú, nhưng cũng chính con người cũng góp phần tôn vinh và làm đẹp thêm phong cảnh của tạo hóa. Tất cả những điều đó đã đưa Bái Đính trở thành một viên ngọc sáng lấp lánh, đa sắc màu, ngàn năm tâm linh, ngàn năm huyền thoại

      bởi Jeff the Killer 18/08/2019
    Like (0) Báo cáo sai phạm
  • Hôm nay, chúng tôi vui mừng được đón đoàn đến tham quan và chiêm bái khu văn hóa tâm linh núi chùa Bái Đính. Nơi đây, hơn 1000 năm về trước, là nơi đóng đô tạm thời của nhà Đinh trong lúc tiến hành xây dựng kinh đô Hoa Lư và sau đó đóng vai trò là một trong “tứ trấn” của kinh đô Hoa Lư. Cũng nơi đây, dưới thời Lý, Quốc sư Nguyễn Minh Không dựng chùa tu hành, làm thuốc chữa bệnh cứu người, đặc biệt là việc chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông.Ta có thể khẳng định nơi đây từ xưa tới nay là một trong những trung tâm Phật giáo (thờ Phật), đạo giáo (thờ thần Cao Sơn), tín ngưỡng thờ Mẫu (mẫu Liễu Hạnh). Để ngày nay, các đền, phủ được phục dựng và ngôi chùa lớn nhất Việt Nam được xây dựng tại đây, với các kỷ lục đã được Trung tâm sách Kỷ lục Việt Nam cấp bằng xác nhận, đó là:

    1. Chuông đồng lớn nhất Việt Nam, nặng 36 tấn, đường kính 3,5m, cao5,5m;
    2. Pho tượng Đức phật Thích Ca bằng đồng cao và nặng nhất Việt Nam. Tượngcao 9,5m, nặng 100 tấn;
    3. Bộ tượng Tam thế bằng đồng dát vàng lớn nhất Việt Nam. Mỗi tượng nặng 50 tấn, cao 7,5m;
    4. Tượng Quan Âm thiên thủ thiên nhãn bằng đồng dát vàng lớn nhất ViệtNam. Tượng nặng 90 tấn, cao 11,45m (tính cả bệ);
    5. Tượng phật Di Lặc bằng đồng lớn nhất Việt Nam. Tượng nặng 80 tấn, cao10m;
    6. Tượng ông Thiện và ông Ác bằng đồng cao và nặng nhất Việt Nam. Mỗitượng nặng 20 tấn, cao 5,2m;
    7. Bộ tượng A Na – Ca Diếp bằng đồng lớn nhất Việt Nam. Mỗi tượng nặng30 tấn, cao 9m;
    8. Bộ tượng Bát bộ Kim cang bằng đồng nặng nhất Việt Nam. Mỗi tượngnặng 4 tấn, cao 3,95m;1 9. Cặp hạc bằng đồng lớn nhất Việt Nam;
    9. Chùa có Hành Lang La Hán lớn nhất Việt Nam. La Hán đường gồm haidãy, mỗi dãy 117 gian, dài 526m;
    10. Chùa có Giếng Ngọc lớn nhất Việt Nam, đường kính 30m, chiều sâu10m;12. Chùa có nhiều cây Bồ Đề nhất Việt Nam. Riêng ngày Đại lễ Phật đảnLiên hiệp quốc tại Việt Nam (17/5/2008), trồng 100 cây bồ đề, triết từ gốc bồ đềẤn Độ.13. Đại lễ cung ngênh sá lợi phật lớn nhất Việt Nam. Hơn 15.000 ngườitham gia và trên 1.000 xe tham gia lễ rước;Ngoài ra, còn có nhiều hạng mục công trình khác cũng rất hoành tráng, côngphu, ấn tượng như: La Hán đường với 500 vị La Hán được tạc bằng đá xanhnguyên khối, tháp bồ đề 9 tầng, hồ phóng sinh rộng gần 5000m2…

      GIỚI THIỆU VÀI NÉT VỀ NÚI BÁI ĐÍNH

    11. Về vị trí địa lý:

    Núi Bái Đính nằm trên địa bàn xã Gia Sinh, huyện GiaViễn, tỉnh Ninh Bình, cách Cố đô Hoa Lư 3km, cách thành phố Ninh Bình 12km(theo đường chim bay) về phía Tây. Núi có độ cao 187m so với mặt nước  biển, diện tích khoảng gần 600 ha. Phong thủy có núi, sông, hồ nước, núi có hình tay ngai

    .2. Về không gian tự nhiên: núi Bái Đính là điểm khởi đầu ở phía Tây Bắccủa sơn hệ đá vôi Hoa Lư, nằm trọn trong tứ giác nước được giới hạn bởi 4 consông: sông Hoàng Long, sông Đáy, sông Vân, sông Bến Đang. Sơn hệ đá vôi HoaLư có diện tích hàng nghìn ha, có những di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh nổitiếng như Cố đô Hoa Lư, khu du lịch Tràng An, khu du lịch Tam Cốc – BíchĐộng… Các ngọn núi trong sơn hệ có độ cao trung bình từ 70-170m. Với độ cao187m, có thể nói, núi Bái Đính là ngọn núi cao nhất vùng, là núi chủ/ núi chúa củasơn hệ đá vôi Hoa Lư.

    1. Nếu đặt sơn hệ đá vôi Hoa Lư trong không gian sông núi Việt Nam, thìnơi đây là sự kéo dài và phân tán của khối núi đồ sộ phía Tây Bắc và cũng là phầnchân của dãy Hymalaya, nơi khởi nguồn của đạo Phật4. Nếu lấy trục Việt Trì – Hà Nội là trục trung tâm của tam giác châu thổ sông Hồng, thì phía Đông Bắc có cánh cung đá vôi Đông Bắc, nổi bật là non thiêng Yên Tử, nơi các vua Trần đặt nền móng phái Mật tông, là trấn ải phía biên giới đông bắc, còn phía Tây Nam, như để cho cân xứng, tạo hóa đã tạo ra sơn hệ đá vôi Hoa Lư, nổi bật là núi thiêng Bái Đính, nơi Quốc sư Nguyễn Minh Không (thời Lý) đã chọn để tu hành và truyền đạo, nơi đây cũng được coi là trấn ải cho kinh đôThăng Long phía tây nam.
    2. Về tên gọi: Núi Bái Đính, theo cách giải thích dân gian có nghĩa là: núi có lễ bái trên đỉnh cao.

    PHẦN I: KHU CHÙA BÁI ĐÍNH MỚI

    1. Tam quan.

    Tam quan là 3 cửa, theo đạo Phật, đó là Không quan, Trung quan, Giả quan;

    Tam Quan- cổng dẫn vào chùa Bái Đính mới

    Tam quan cũng có nghĩa là 3 cửa: cửa khổ, cửa vô thường, cửa vô ngã; Khi quý khách bước qua ngưỡng cửa tam quan cũng có nghĩa là quý khách đã bước vào cõi thiêng, vào một thế giới khác tục, một thế giới có nhiều tính thánh thiện, để tìm lẽ cân bằng của cuộc sống. Những tín đồ đến  đây như muốn đem hoà cá thể vào mênh mông, đem hữu hạn hoà vào vô hạn để tìm thấy chính mình

    • Tam quan được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ, để xây dựng tam quan, người ta đã sử dụng khoảng 550 tấn gỗ tròn. Tam quan có lối kiến trúc kiểu chồng giường, cao 16,5m, rộng 13m, dài 32m.

    Phía trước tam quan, hai bên tả hữu có hai con sư tử bằng đá, là biểu hiện sức mạnh của trí tuệ. Trong trường hợp đặt trước Tam quan nó còn mang ý nghĩa kiểm soát tâm hồn kẻ hành hương.

    Vào Tam quan, theo hướng nhìn của khách từ ngoài vào trong, bên phải có đặt tượng thần Khuyến thiện, tay cầm viên ngọc, biểu tượng cho đạo pháp; bên trái là tượng thần Trừng ác, tay cầm kiếm. Cả hai vị thần đều ngồi trên con sư tử, mang ý nghĩa: lấy nền tảng của trí tuệ để hành đạo, hướng con người tới chân – thiện – mỹ.

    Bên trên tam quan có hình tượng bánh xe luân hồi, được chạm thông phong, biểu tượng sự chuyển vần không ngừng của phật pháp, của trời đất. Ở giữa có chữ Vạn, tượng trưng của ngọn lửa tam muội (lửa thiêng). Chữ Vạn còn tượng trưng cho trí tuệ và lòng từ bi, quảng đại của đức Phật. Chữ Vạn mở rộng ra hai bên biểu

    thị sự vận động vô hạn của Phật lực, kéo dài tới 4 phương, mở rộng vô cùng tận. 3 Từ Tam quan, chúng ta đi theo hành lang phía tay  phải.Tại sao chúng ta lại vào phía bên phải mà không phải bên trái trước?

    Theo quan niệm của đạo Phật, vào chùa chúng ta vào từ bên phải của khách(tức bên trái của chùa) có nghĩa là đi theo chiều quay của chữ Vạn, cũng là đi từ dương sang âm để làm tịnh tiến thiện căn.

    1. Hành lang (La Hán Đường)

    Hành lang được thiết kế hoàn toàn bằng gỗ, các vì kèo mái được kết cấu kiểu giá chiêng chồng giường con nhị. Dọc hai hành lang tả, hữu đặt 500 pho tương La Hán, chất liệu bằng đá, do các nghệ nhân làng nghề đá Ninh Vân( Hoa Lư) chế tác. Vì vậy hành lang còn gọi là La Hán Đường. La Hán Đường gồm hai dãy, mỗi dãy 117 gian, dài 526m. Người ta đã sử dụng khoảng 3500m.

    Hình ảnh có liên quan

    Hành lang

    Gỗ để xây La Hán Đường

    La Hán là các đệ tử của Phật Thích Ca, họ chưa thành Phật nên gọi là La Hán. Vì vậy chúng ta thấy, La Hán đường chỉ được sắp đặt từ tam quan đến gần điện Pháp chủ, đây cũng là con đường tượng trưng cho con đường đến với cõi Phật. Mỗi vị La Hán đều có tên và ý nghĩa riêng.

    Tại sao các vị La Hán lại được thờ ở hành lang?

    Vì ở vị trí này, họ thường xuyên gần gữi, giáo dưỡng, dìu dắt chúng sinh. Trên con đường này, nếu để ý hai bên, chúng ta thấy rất nhiều những cây mít được trồng. Tại sao vậy? Trong đạo Phật mít là Paramita. Âm Hán Việt là Ba-la-mật-đa, nghĩa là đáo bỉ ngạn(đến bờ giác ngộ). Ý nghĩa của cây mít là đại giác ngộ, đỉnh cao của giải thoát. Vì thế, cây mít là cây thiêng, gắn với Phật đạo(gỗ mít dùng làm mõ chùa, làm tượng Phật, lá mít dùng đặt oản lễ Phật…). Thực ra, mít nó không mang yếu tố đơn thuần là chất liệu với những gân xoắn biểu hiện nghệ thuật, cao hơn, nó biểu hiện miền đất thoát tục.

     3.Gác chuông

    – giới thiệu về kiến trúc: Gác chuông kiến trức hình bát giác, có 3 tầng mái cong, chiều cao 18,25m, đường kính 17m, mang dáng dấp của bông sen. Gác chuông có một lối lên và một lối xuống. Để lên gác chuông, mời quý khahcs lên phía cầu thang bên phải(theo lối nhìn của khách từ tam quan vào).

    – giới thiệu về quả chuông: Đây là quả chuông đồng nặng 36 tấn, do các nghệ nhân ở Huế đúc. Qủa chuông này đã được trung tâm Sách Kỷ lục Việt Nam cấp bằng xác nhận là quả chuông bằng đồng lớn nhất Việt Nam.

    Như quý khách có thể thấy, quả chuông có 15 vành hoa văn. Tính từ trên xuống, các vành hoa văn được trang trí như sau:

    Vành hoa văn 1, 2, 3, 4, 5, 10, 13: khắc chữ Hán.

    Vành hoa văn 6 trang trí hoa văn lá đề cách điệu.

    Vành hoa văn 7 là vành hoa văn ở giữa, rộng nhất, trang trí các bài minh văn bằng chữ Hán.

    Vành hoa văn 8, 14 trang trí hoa văn cúc dây.

    Vành hoa văn 9 trang trí hình ảnh lưỡng long chầu quả lôi đang bốc lửa và các chữ Hán.

    Xin nói thêm về hình ảnh quả lôi đang bốc lửa: Về ý nghĩa văn hoá tâm linh, hình tượng rồng chầu “quả lôi” biểu hiện ý thức cầu nguồn nước, cầu mưa. Đối với cư dân nông nghiệp, cầu nguồn nước chính là cầu no đủ, hạnh phúc.

    Vành hoa văn 11, 12 trang trí hoa văn chữ “Vạn” cách điệu, giữa hai vành này, ở bốn phía là các rốn chuông.

    Vành hoa văn 15 (vành cuối cùng) trang trí hoa văn sóng nước. Các hoa văn này được thiết kế mang phong cách thời Lý.

    Theo quan niệm của nhà Phật, tiếng chuông khi gõ vào sáng sớm là cảnh tỉnh, buổi chiều là thu không. Mỗi khi tiếng chuông vang lên, mọi thế giới hành tội nghỉ ngơi, những kẻ tội lỗi khi nghe tiếng chuông thì tội lỗi cũng sẽ được tiêu tan. Với quan niệm, tiếng chuông chùa càng ngân xa bao nhiêu, càng xua nỗi khổ của chúng sinh đi bấy nhiêu, vì vậy, gác chuông của chùa được đưa lên rất cao. Khi những hồi chuông được gióng lên, thì ở cách xa hàng chục km vẫn có thể nghe thấu.

    Với phật tử, nghe tiếng chuông buổi sớm như nhắc nhở nghiệp bồ tát vị tha; tiếng chuông chiều: diệt trừ sầu não. Tiếng chuông cũng như thúc đẩy cho muôn loài sinh sôi, vì toà nhà đó mang yếu tố dịch học. Cả toà nhà coi như thái cực. Mái trên nhẹ (+), mái dưới nặng (-). Âm dương đối đãi, vạn vật sinh sôi, nảy nở.

    Như quý khách có thể thấy, chày kình để đánh được quả chuông này cũng rất lớn. Chày kình bằng gỗ có chiều dài khoảng 5m, đường kính 30cm, nặng gần 500kg (5 tạ).

    1. Điện Quan Thế âm Bồ tát.

    – Giới thiệu về kiến trúc: Đây là công trình được làm hoàn toàn bằng gỗ, khoảng 900m

    3 gỗ tròn đã được sử dụng làm công trình này. Điện thờ gồm 7 gian, chiều cao 14,8m, chiều rộng 16,8m, chiều dài 40,4m.

    Giới thiệu về pho tượng Quan Thế âm Bồ tát: Đây là pho tượng đã được Trung tâm Sách Kỷ lục Việt Nam cấp bằng xác nhận là tượng Quan Thế âm bằng đồng lớn nhất Việt Nam. Tượng cao 5,4m, nếu tính cả bệ tượng là 9,57m; nặng 80 tấn, nếu tính cả bệ tượng là khoảng 100 tấn.

    Như chúng ta đã biết, Quan âm là vị phật đại diện cho tứ đại vô lượng tâm:đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, vì vậy, ở bất kể đâu, phật Quan âm cũng luôn tượng trưng cho sự từ bi, cứu khổ, cứu nạn mọi chúng sinh. Pho tượng tại đây là hình ảnh tượng Quan âm thiên thủ thiên nhãn (tức là Quan âm nghìn tay nghìn mắt). Theo truyền thuyết, bà là con gái vua Thủy Tề, bỏ mặc giàu sang phú quý đi tu Phật, bà hy sinh cả đôi tay, đôi mắt của mình để chữa bệnh cho chúng sinh. Vì thế Phật cho bà tăng lên nghìn con mắt, nghìn bàn tay để bà làm được nhiều việc công ích và nhìn, thấu hiểu nỗi khổ của chúng sinh nghìn lần hơn nữa.

    Như chúng ta thấy, tượng Quan âm ở đây được thể hiện có 3 khuôn mặt chồng lên nhau, tương truyền, bà suy nghĩ về chúng sinh nhiều quá nên đầu vỡ làm 3; cũng có người giải thích đó là tam giáo đồng tôn: nho – đạo – phật. Tượng có 5 đôi tay lớn, mỗi đôi tay thể hiện một cách kết ấn khác nhau, có đôi tay kết ấn Thiền định, có đôi tay kết ấn Liên hoa… nhưng dù là cách kết ấn nào thì cũng thể hiện lòng từ bi, bác ái của Quan âm bồ tát, của đạo Phật đối với chúng sinh.

    Điều đặc biệt là tượng Quan âm được tạc ngồi trên đài sen, có quỷ đội. Như vậy, chúng ta có thể hiểu đây cũng là hình ảnh của tượng Quan Âm Nam Hải. Sở dĩ gọi là Quan Âm Nam Hải là vì ở biển phương Nam. Và con quỷ đội đài sen ấy có tên là Ô-ba-nan-đà long vương (gọi tắt là Nan đà long vương).

    Hình tượng quỷ đội đài sen biểu hiện rằng, uy lực của phật pháp đã thấm nhuần tới cả cõi âm ti.

    1. Điện Pháp chủ.

    – Giới thiệu về hồ phóng sinh: Trước cửa điện Pháp chủ là hồ phóng sinh, diện tích khoảng 5000m. Xung quanh hồ trồng nhiều cây bồ đề. Đây là những cây do các đồng chí lãnh đạo, các nguyên thủ quốc gia đã trồng khi về thăm chùa.

    (Có thể giới thiệu thêm về cây bồ đề (âm Hán Việt là Bu – đa) nghĩa là người giác ngộ. Cây bồ đề là cây thiêng gắn với đạo Phật, mang yếu tố giác ngộ nên nó được đặt ở phía ngoài. Với chúng ta hiểu, bồ đề là giác ngộ trên nền tảng trí tuệ hướng đến điều thiện. Vì vậy, cây bồ đề trồng phía ngoài, nhắc nhở phật tử phải dẹp lòng trần, khởi lòng tĩnh, hướng đến đất Phật).

    1. Điện Tam thế.

    – Giới thiệu về vị trí phong thủy của khu chùa Bái Đính (Tại sân điện Tam thế, vì ở vị trí này khách có thể nhìn bao quát toàn cảnh). Từ sân điện Tam thế nhìn về phía Tam quan:

    + Bên hữu (phải) có dãy núi Hàm Rồng, núi Hàm Xà.

    + Bên tả (trái) có núi Lê, núi Khám, núi U Bò, núi Ba Chạc, núi Thờ.

    + Phía trước chính diện có hồ Đàm Thị, xa hơn là núi Hàn Cay, tựa bức bình phong của khu chùa, xa hơn nữa là dòng Hoàng Long đầy ắp huyện thoại. Chúng ta có thể thấy, phía trước khu chùa là một bức tranh sơn thủy hữu tình, âm dương đối đãi. Có thể nói thêm phía bên kia bờ Hoàng Long là quê hương của vua Đinh Tiên Hoàng, cũng là quê hương của Quốc sư Nguyễn Minh Không, người có công đầu xây dựng ngôi chùa Bái Đính cổ.

    + Phía sau là núi Bái Đính, nơi có ngôi chùa cổ.

    – Giới thiệu về kiến trúc: Điện Tam thế được xây dựng với kiến trúc 3 tầng mái, gồm 7 gian, 2 chái, với tổng cộng 66 cột lớn nhỏ đúc bê tông, ốp gỗ. Phật điện cao 34m, dài 59,10m, rộng 40,50m, diện tích lòng điện 2364m

    Con đường nhất chính đạo từ Tam quan đến điện Tam thế dài 812m.Bức phù điêu đá (trước thềm tòa Tam thế) có kích thước 10m x 10m, được chạm khắc tứ linh: long, ly, quy, phượng.

    – Giới thiệu về bộ tượng Tam thế: Đây là bộ tượng đồng, do các nghệ nhân đúc đồng ở Ý Yên (Nam Định) chế tác. Bộ tượng đã được Trung tâm Sách Kỷ lục Việt Nam cấp bằng xác nhận là bộ tượng Tam thế bằng đồng lớn nhất Việt Nam.

    Kết quả hình ảnh cho điện tam thế ở bái đính

    Mỗi pho tượng cao 7,20m, nặng 50 tấn, đặt trên bệ đá cao 1,5m. Tam thế có nghĩa là 3 thời: quá khứ, hiện tại, tương lai. Tên đầy đủ của bộ tượng này trong đạo Phật là Tam thế thường trụ diệu pháp thân, có nghĩa là Phật luôn tồn tại kỳ diệu khắp mọi nơi, mọi lúc. Ý nghĩa của bộ tượng này là các vị Phật của các thời luôn nối tiếp nhau để giáo hóa chúng sinh. Các vị Phật có kích thước và hình dáng giống nhau, đều ngồi thế tọa thiền kiết già toàn phần (yoga)

    Vị Phật ngồi giữa là tượng hiện tại thế, còn gọi là Hiền kiếp. Vị phật này thể hiện cách kết ấn Thiền định với ý nghĩa giữ cho tâm thanh, lòng tĩnh, chống lại mọi tà loạn.

    Vị Phật ngồi bên trái (theo hướng nhìn của khách từ ngoài vào) là tượng quá khứ thế, còn gọi là Trang nghiêm kiếp. Vị phật này thể hiện cách kết ấn Thuyết pháp với ý nghĩa dùng đạo Phật để giáo hóa chúng sinh.

    Vị Phật ngồi bên phải là tượng vị lai thế, còn gọi là Tinh tú kiếp. Vị phật này thể hiện cách kết ấn Vô úy với ý nghĩa diệt mọi trừ tà ma, tội lỗi.

    1. Một số công trình khác (sẽ được xây dựng trong tương lai gần, như thảo

    viên, khu bảo tàng Phật giáo, nhà thờ Mẫu, khu tháp, nhà thờ Tổ…). Đây cũng là

    những công trình có kiến trúc đồ sộ, hoành tráng, tạo nên một quần thể chùa Bái

    Đính ấn tượng, độc nhất vô nhị của Việt Nam.

    PHẦN II: CHÙA BÁI ĐÍNH CỔ

    1. Giới thiệu chung.

    Như đã giới thiệu ở phần trước, các quý khách đang bước chân trên mảnh đất có bề dày lịch sử hàng ngàn năm, văn hóa, tín ngưỡng. Bản thân khu vực núi chùa Bái Đính đóng vai trò là vùng giao thoa giữa văn hóa sông Hồng ở phía Bắc và văn hóa sông Mã ở phía Nam, là cửa ngõ từ rừng xuống biển, là một điểm trên con đường sinh dưỡng, giao lưu bằng đường bộ theo hướng Bắc – Nam của người Tiền sử. Điều này được chứng minh qua các di chỉ khảo cổ học ở núi Thung Bình, hang Bói, hang Trống… (những di chỉ thời đại đồ đá nằm ở phía Đông Nam núi Bái Đính), qua những di chỉ thời đại đồ đồng: núi Ốp, núi Xưa, đồi Đống (phía Tây Bắc núi Bái Đính)… Đó là nền cơ sở vật chất của nền văn minh Đông Sơn, thời đại các vua Hùng, gắn liền với những truyền thuyết, huyền thoại về nhân vật thần núi Thánh Tản Viên, nhân vật này cũng được thờ tại đây.

    Kết quả hình ảnh cho chùa bái đính cổ

    Và khu vực núi Bái Đính cũng nằm trên dòng chảy của tín ngưỡng thờ Mẫu (một tín nhưỡng bản địa của dân tộc), từ đền Sòng, phố Cát (Thanh Hóa) đến phủ Đồi Ngang (Nho Quan – Ninh Bình) qua núi Bái Đính, ở đây ngoài động thờ Phật, đền thờ thánh Cao Sơn còn có phủ thờ Mẫu, để rồi từ đây, dòng chảy tiếp tục về núi Gôi (Nam Định) gắn liền với nhân vật mẫu Liễu Hạnh ba lần sinh, ba lần hóa.Và cũng chính vì thế, nhân ngày hội chùa Bái Đính (ngày mồng 6 tháng Giêng) vào các năm 1943, 1944 có hàng nghìn Phật tử; tín đồ của Mẫu, của Thánh đến tham dự, lợi dụng thời điểm tập trung đông người này các chiến sỹ Cộng sản.

     

    Chùa Bái Đính cổ (Bái Đính cổ tự) nằm gần trên đỉnh của một vùng rừng núi khá yên tĩnh cách điện Tam Thế của khu chùa mới khoảng 800 m về phía nam. Chùa Bái Đính cổ tọa lạc trên một ngọn núi cao 187m, thuộc xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Nơi có nhiều giai thoại về Đức Thánh Nguyễn Minh Không, người đã lập nên vào triều Lý khi Ngài về đây tìm cây thuốc quý chữa bệnh cho vua. Vì vậy chùa Bái Đính cổ có nhiều chi tiết kiến trúc và cổ vật mang dấu ấn đậm nét của thời Lý.

    Gần 1000 năm trôi qua, ngôi chùa Bái Đính cổ vẫn còn đó như một minh chứng cho sức sống bền bỉ của đạo Phật trong đời sống tâm linh của người Việt. Các hạng mục chính của chùa Bái Đính cổ gồm: động thờ Phật, động thờ Mẫu, điện thờ Đức Thánh Nguyễn Minh Không và điện thờ Đức Thánh Cao Sơn.
    Bái Đính cổ tự không có những mái chùa cong vút mái đao hay mũi hài, càng không có những trụ cột to lớn, đồ sộ hay thượng điện nguy nga lộng lẫy. Mà được tạo dựng theo lối kiến trúc chùa động khá phổ biến như các chùa cổ khác ở Ninh Bình.
    Tất cả các ban thờ Phật, thờ Mẫu của chùa Bái Đính cổ đều được đặt giữa lòng những sơn động u minh, làm tăng thêm không khí linh thiêng và huyền bí nơi cửa thiền. Trần hang động đã trở thành những mái chùa kiên cố, che chắn chốn thiêng ngự trị của Phật, của Mẫu đã hàng bao thế kỷ nay.
    Muốn lên thăm hang động ở núi Bái Đính các du khách phải bước trên 300 bậc đá, qua cổng Tam Quan ở lưng chừng núi. Lên hết dốc là tới ngã ba là đền thờ Thánh Nguyễn, bên phải là hang sáng thờ Phật, bên trái là động tối thờ Mẫu. Mỗi một hang động đều có một sự tích và huyền thoại riêng tạo nên những nét kỳ bí và linh thiêng nơi cửa thiền.

    Thiền sư Nguyễn Minh Không và Đền thờ thánh Nguyễn 
    Lý Quốc Sư hay thiền sư Nguyễn Minh Không là một nhà sư tài danh, sinh ra tại huyện Gia Viễn, Ninh Bình. Ông được coi là thần y khi đã chữa bệnh “hóa hổ” cho vua Lý Thần Tông, từ đó trở thành vị cao tăng đứng đầu của triều đại nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, cũng là người đầu tiên áp dụng phương pháp chữa bệnh bằng thuốc Nam và châm cứu, là người có nhiều công lớn chữa bệnh cho vua và nhân dân.
    Tương truyền rằng, khi ông đi tới vùng đất núi chùa Bái Đính hiện nay, vùng đất “địa linh nhân kiệt”, Ông nhận ra đây là nơi tiên cảnh, với thế núi hướng về phía Tây như chầu về đất Phật, rừng núi mênh mông với muôn vàn cây thuốc quý. Ông quyết định dừng lại nơi đây để tu hành và đặt tên cho núi là Bái Đính sau đó biến nơi đây thành “vườn sinh dược” (có nghĩa là vườn thuốc quý) để cứu sinh độ thế cho muôn dân. Ông là người trực tiếp bốc thuốc chữa bệnh cho chúng sinh nhờ vào những loại thuốc quý có sẵn nơi đây và một số loại ông đưa từ nơi khác về trồng. Đền thánh Nguyễn được đặt nằm ngay tại ngã ba đầu dốc, xây theo kiểu tựa lưng vào núi, trong đền có tượng của ông được đúc bằng đồng.

      Động thờ Phật
    Động thờ Phật có chiều dài 25m cao 2m. Trong một lần vua Lê Thánh Tông kinh lý phương Nam, ngài đã thăm và ban tặng chùa Bái Đính bốn chữ “Minh Đỉnh Danh Lam” trên cửa động, nhằm miêu tả, ca ngợi vẻ đẹp và sự linh thiêng của núi rừng nơi đây. Trước cửa động thờ 2 pho tượng Hộ pháp bằng đồng là ngài Khuyến Thiện và Trừng Ác.
    Trong động thờ Phật còn thờ Đức chúa ông, tức là Trưởng giả Tu Đạt hay còn gọi là ông Cấp Cô Độc. Ông là một vị Trưởng giả ở đất nước Ấn Độ cổ, sinh cùng thời với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là đệ tử tu tại gia và hộ pháp đắc lực của Đức Phật. Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni chứng đắc đạo quả dưới gốc cây Bồ đề, Trưởng giả Tu Đạt và Thái tử Kỳ Đà đã cùng nhau xây dựng một Tịnh Xá dâng lên Đức Phật để ngài làm nơi thuyết pháp, độ sinh. Sau này khi Phật Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn, thì nơi này đã làm nơi thờ Phật và đó được coi là ngôi chùa đầu tiên.

    Trong động chính là thờ ngôi Tam Bảo – ba ngôi báu, bao gồm: Phật Bảo là chỉ cho 10 phương ba đời các Đức Phật, Pháp Bảo là chỉ cho kinh điển, giới luật, giáo lý… của nhà Phật; Tăng Bảo là chỉ cho những người xuất gia tu hành tu theo giới luật của Phật và truyền trì chính pháp.

    Động thờ Mẫu.
    Đối diện với động thờ Phật là động thờ Mẫu. Bên trái cửa động treo quả chuông nặng 300kg và có khắc 8 chữ là: “Mẫu – Nghi – Thiên – Hạ / Xuân – Hạ – Thu – Đông”.

    Hình ảnh có liên quan

    Cũng như các ngôi chùa khác ở Việt Nam, chùa Bái Đính có tín ngưỡng thờ Tam tòa Thánh Mẫu, hướng đến cuộc sống thực tại của con người với ước vọng sức khỏe, tài lộc, may mắn… Trong đó, Mẫu Thoải là Mẫu đệ tam cai quản vùng sông nước, thường được khoác trên người màu áo trắng; Mẫu Thượng Ngàn là Mẫu đệ nhị người cai quản vùng núi rừng nên khoác trên người màu áo xanh; Mẫu Liễu Hạnh là mẫu đệ nhất, khoác trên người màu áo đỏ – màu của sinh lực, màu của sự hy sinh, biểu tượng cho sự hy sinh của những người mẹ.
    Hầu cận Mẫu là đôi Kim Đồng, Ngọc Nữ cùng với Ngũ vị tiên quan, tức là năm vị quan tối cao thi hành các nhiệm vụ của Mẫu khi mẫu ban lệnh.
         
    Đền Thánh Cao Sơn 
    Đi sâu qua động thờ Thánh Mẫu có một lối dẫn xuống sườn thung lũng của rừng cây sưa là đền thờ thần Cao Sơn, vị thần cai quản vùng núi Vũ Lâm. Ngôi đền thần Cao Sơn hiện tại được tu tạo có kiến trúc gần giống với đền Thánh Nguyễn, cũng xây tựa lưng vào núi, có hành lang ngăn cách với thung lũng ở phía trước. Theo truyền thuyết Thánh Cao Sơn là một vị tướng của Vua Hùng (Tản Viên là anh cả, Cao Sơn là anh thứ hai, Quý Minh Đại Vương là thứ ba). Tương truyền rằng, lệnh bài người cầm trước ngực là do vua Hùng ban cho những cánh quân đi về núi Bái Đính để trấn giữ 99 ngọn núi

    Đặc biệt từ cửa hang sáng nhìn ra phía trước là thung lũng xanh ngút ngàn, tức cảnh sinh tình, có truyền thuyết kể lại rằng, khi vua Lê Thánh Tông lên vãn cảnh chùa trên đỉnh Bái Đính vua đã tạc một bài thơ trên núi đá ca ngợi vẻ đẹp nơi đây, hiện vẫn còn lưu giữ tới ngày nay. Bài thơ có câu dịch:

    Đính sơn danh tiếng thật cao xa
    Che chở kinh thành tự thửa xưa
    Nhân kiệt địa linh nên vượng khí
    Núi thiêng cảnh đẹp vững sơn hà

      bởi Vũ Minh Khang 04/03/2020
    Like (0) Báo cáo sai phạm

Nếu bạn hỏi, bạn chỉ thu về một câu trả lời.
Nhưng khi bạn suy nghĩ trả lời, bạn sẽ thu về gấp bội!

Lưu ý: Các trường hợp cố tình spam câu trả lời hoặc bị báo xấu trên 5 lần sẽ bị khóa tài khoản

Gửi câu trả lời Hủy
 
NONE

Các câu hỏi mới

AANETWORK
 

 

YOMEDIA
AANETWORK
OFF