YOMEDIA
NONE

Thuyết minh về chiếc bánh Tét ngày Tết.

Thuyết minh về chiếc bánh Tét ngày Tết.

Theo dõi Vi phạm
ATNETWORK

Trả lời (2)

  • Không khí ngày xuân không thể thiếu rượu, bánh mứt, phong bao lì xì đỏ, cây nêu và bánh chưng xanh. Đối với cư dân vùng đồng bằng Nam bộ, bánh Tét lại là món ăn không thể thiếu trên bàn thờ gia tiên như tấm lòng thành kính của con cháu sau một năm làm lụng vất vả. Ngồi bên bếp lửa hồng, nghe hơi ấm giữa lòng đêm se se chợt nghe bao ký ức tìm về.

    Nếu ở miền Bắc trong ngày Tết, giỗ kỵ, các lễ hội cổ truyền có bánh dày, bánh chưng để dâng cúng tổ tiên, thì ở Nam Bộ bánh Tét được liệt ngang hàng, coi như bánh Tổ. Hiện diện như một nét văn hóa của miền Nam, bánh Tét gói ghém trong nó cả một nền văn minh nông nghiệp với gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn… quyện vào nhau thật dẻo mềm, bùi béo giữa màu xanh thẫm và láng mượt của lớp lá chuối mang hương vị tự nhiên của trời đất. Thường được gọi là bánh đòn do có hình trụ dài và tròn đều, cứ mỗi hai đòn bánh lại cột thành một cặp có dây quai để xách, vừa tiện vừa đẹp, lại phù hợp với tập quán vì năm mới phải đủ đôi, chẵn cặp mới hạnh phúc, thịnh vượng.

    Tương truyền tên gọi “bánh Tét” có xuất xứ từ hành động nắm đầu dây buộc, khoanh tròn đòn bánh đã lột vỏ, “Tét” từng khoanh một đơm lên đĩa. Cũng có thuyết cho rằng bánh Tét là một biến thể của chiếc bánh chưng ngoài Bắc về nguyên liệu, cách nấu, chỉ khác về hình dáng và sử dụng lá chuối để gói thay vì lá dong. Hay có nơi lại hiểu bánh Tét là một trong những sản phẩm của trồng trọt và chăn nuôi Việt Nam, cái đặc sắc, độc đáo của bánh chủ yếu ở nét khác biệt trong hình khối, màu sắc, hương vị so với các loại xôi đỗ và bánh nếp khác nên cứ mỗi năm tết đến người phương Nam lại gói loại bánh này, gọi là “bánh tết”, lâu dần đọc trại ra thành “bánh Tét”.

    Được người Kinh và một số dân tộc thiểu số ở miền Nam và Trung chế biến một cách tài tình, lại tuỳ theo địa phương mà thêm thắt gia vị cho hợp khẩu nên đòn bánh Tét phương Nam ngày càng phong phú về chủng loại và hương vị. Nào là bánh Tét nhân ngọt (không có thịt) nhân đậu xanh có trộn đường; bánh Tét nhân chuối thay cho nhân đậu xanh, đòn nhỏ một trái chuối, còn đòn lớn ba trái chuối xiêm chín có thêm đường để tăng độ ngọt cho nhân, khi chín có màu đỏ tím. Tét khoanh bánh ra trông lạ mắt, màu đỏ tím chính giữa nổi bật bên ngoài màu nếp trắng phau rất đẹp. Nào là bánh Tét thập cẩm với phần nhân cao cấp gồm trứng, tôm khô, lạp xưởng, hạt sen, thịt giò Bắc thảo, đậu phộng, nấm đông cô trộn chung với nhân đậu xanh…

    Mỗi lần gói bánh Tét, người ta thường gói chí ít 5 – 7 đòn vừa để dành ăn dần, vừa để biếu hàng xóm láng giềng, bà con thân thích. Hay nhất là cứ sau hăm ba ông Táo chầu Trời cả nhà tự xúm xít lại gói bánh. Trước tiên, xếp lá chuối ngang dọc xen kẽ nhau, sau đó cho gạo nếp, đậu xanh đãi vỏ đã nấu chín lên trên, trải đều ra thành hình chữ nhật, sau đó thêm vào giữa một miếng thịt lợn theo chiều dài đòn bánh. Kế đến cho thêm một lớp đậu xanh và một lớp gạo nếp lên trên cùng rồi bắt đầu lăn cuộn bánh. Gấp một đầu bánh lại và bắt đầu nén gạo cho chặt và buộc dây lạt nữa là hoàn tất.

    Để nấu bánh, chọn một cái nồi thật cao để xếp những chiếc bánh vào, cho nước ngập mặt bánh rồi đun trên bếp củi. Cách giờ phải thăm và châm nước thêm. Bánh nấu liên tục trong khoảng từ 10 – 12 tiếng đồng hồ mới chín đều. Vì thời gian nấu lâu nên hạt gạo khi chín sẽ mềm và quyện chặt lấy nhau, khác hẳn với xôi khi người ta “đồ”. Lúc này, các vật liệu như thịt (phải là thịt vừa nạc vừa mỡ mới ngon; chỉ thịt nạc, nhân bánh sẽ khô), gạo, đỗ đều chín nhừ, chan hòa, ngấm vào nhau, trở nên thơm ngon độc đáo. Cùng nhau ngồi quây quần bên nồi bánh Tét đượm ánh lửa hồng, chợt nghe trong lòng lâng lâng bao cảm xúc khó tả về một sự thiêng liêng, sự hòa điệu của thiên nhiên và con người giữa đêm thanh vắng chỉ còn tiếng cười nói, tiếng tí tách của những thanh củi và bao câu chuyện vượt thời gian. Người này canh bánh thì người kia ngủ, trong giấc ngủ mơ màng bạn sẽ được nghe thoang thoảng mùi hương tỏa ra từ những đòn bánh chín đầu tiên của mùa Tết. Tự tay vớt những đòn bánh ra và xếp thành từng dãy trên bể nước, dằn cho bánh được ráo cũng sẽ rất thú vị cho những ai tự nấu bánh Tết cho người thân và gia đình.

      bởi hai trieu 13/02/2020
    Like (0) Báo cáo sai phạm
  • YOMEDIA

    Video HD đặt và trả lời câu hỏi - Tích lũy điểm thưởng

  • Mỗi đất nước, mỗi dân tộc trên thế giới đều có những phong tục, những tập quán riêng biệt. Vào mỗi dịp lễ quan trọng, họ đều có những tập tục, các món ăn cổ truyền, dân gian khác nhau: lễ Tạ Ơn của Mĩ thì có gà tây, của Pháp thì có các loại bánh phô mai, pudding đặc sắc,… Nhưng nếu đòi hỏi một thức ăn vừa đẹp đẽ, vừa ngon lành, vừa bổ dưỡng, lại vừa mang truyền thống, những nét đẹp tinh túy, thanh cao nhất của dân tộc như chiếc bánh chưng xanh của Việt Nam thì không phải bất cứ dân tộc hay đất nước nào có thể có được. Từ ngàn đời nay, chiếc bánh chưng vẫn luôn được có mặt trong những dịp lễ, Tết của người dân Việt Nam.

    Cứ mỗi năm, vào dịp Tết đến xuân về, đầu xuân năm mới, người người, nhà nhà lại đi sắm Tết, mua đủ những vật dụng, những đồ ăn trong những ngày Tết âm lịch. Và chiếc bánh trưng là không thể thiếu. Khi ăn những chiếc bánh chưng deo dẻo. mềm mềm. có bao giờ bạn tự hỏi, chiếc bánh chưng đã có từ bao giờ, nguồn gốc xuất xứ từ đâu? Chiếc bánh chưng đã có từ rất lâu đời, từ hàng nghìn năm trước đây. Theo tương truyền, từ đời vua thứ 6, đã có chiếc bánh chưng. Năm đó, do tuổi già sức yếu, vua Hùng đời thứ 6 có ý định muốn truyền ngôi cho các vị hoàng tử lại nói với họ ý định của ông và ông sẽ truyền ngôi cho hoàng tử nào tìm được món đồ quý giá, có đầy đủ tinh hoa, tinh túy nhất. Các hoàng tử nghe vậy, ai cũng nghĩ ra đủ các thứ đồ quý. Các chàng người lên rừng, người xuống biển, lệnh cho tất cả người hầu phải tìm ra những thứ quý giá nhất. Chỉ duy có hoàng tử út Lang Liêu là không biết phải tìm những gì. Tuy là hoàng tử, con vua nhưng Lang Liêu rất nghèo, mẹ chàng sau khi sinh ra chàng đã mất nên chàng cũng không nhận được tình cảm hay sự quan tâm nhiều của vua cha cũng như các vị huynh trưởng. Chính vì điều đó, khi về đến nhà, Lang Liêu cứ trằn trọc mãi, không biết nên làm thế nào, ruột rối như tơ vò tâm sự với vợ. Đêm hôm đó, khi đi ngủ, trong giấc mơ, Lang Liêu đã gặp được vị Thần Nông, thần đã khuyên Lang Liêu phải làm loại bánh tinh túy nhất từ gạo, từ muôn vị . Khi tỉnh dậy, Lang Liêu bắt tay vào làm ngay, làm ngay chiếc bánh dày tròn tượng trưng cho trời, chiếc bánh chưng vuông tượng trưng cho đất. Đến ngày, nhà vua lại triệu tập, các huynh cả đều mang đến cho vua toàn những thứ quý giá nhất: ngà voi, ngọc trai,…, mong được kế thừ ngôi vị. Thấy Lang Liêu chỉ mang hai thứ bánh đến, họ khinh suất. Đến khi vua Hùng nếm thử bánh, thấy vị ngọt ngọt, bùi bùi, hương vị trời đất như giao hòa, quyết định chọn lễ vật của Lang Liêu, cho chàng lên làm vua và phổ biến bánh với người dân. Từ đó, phong tục bánh chưng ngày Tết đã ra đời và kéo dài cho tới ngày nay.

    Ngày nay, việc nấu bánh chưng vào ngày Tết như đã trở thành một thông lệ. Cứ đến Tết, người người, nhà nhà lại gói bánh chưng. Để gói ra được chiếc bánh chưng vuông vắn, xanh mướt không phải là điều đơn giản. Đầu tiên là chuẩn bị nguyên liệu: lá dong (phải chọn loại bánh tươi xanh, hay dùng để nấu bánh tẻ, kích cỡ không nhỏ quá, cũng không to quá), gạo nếp ( có thể tùy chọn nhưng loại nếp cái hoa vàng là loại gạo ngon nhất và thích hợp nhất để nấu bánh chưng ), thịt ( là loại thịt ba chỉ, ngon tươi và sạch), đậu xanh (có thể chọn loại có vỏ hoặc không có vỏ) và lại buộc (làm bằng giang, chẻ mỏng, to bản, có thể tự làm hoặc mua ở ngoài chợ). Cuối cùng là phải chuẩn bị nồi đun to, gạch kê nồi và củi lửa.

    Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ nguyên liệu, ta bắt đầu gói bánh. Rửa sạch lá dong là việc đầu tiên, sau đó tước bỏ cuống lá, cắt đầu và cuối sao cho đẹp, rồi cuộn lại cho hết nước, lau khô lá. Gạo nếp phải đãi sạch rồi đổ vào thúng cho khô hẳn. Tiếp là đậu xanh, nếu đậu có vỏ thì ngâm nước rồi vo cho hết vỏ, còn nếu đậu đã bóc vỏ sẵn thì chỉ việc ngâm cho bở rồi cho vào nồi nấu chín, giã nhuyễn, nắm thành từng nắm đều nhau. Gạo nếp trước khi gói phải xóc muối, thịt ba chỉ thái dày từ 0,5-1cm, dài 4cm, phải ướp gia vị hạt tiêu vừa vặn để khi nấu lên sẽ dậy mùi thơm.

    Cách gói bánh chưng đối với nhiều người có thể đơn giản nhưng đối với một số người khác, nó lại khó khăn. Gói bánh chưng muốn đẹp, thì phải có tay nghề. Đầu tiên, mỗi chiếc bánh chưng cần phải dùng ba lá dong, xếp hình chữ thập. Tiếp đó, cho gạo vào đầu tiên và san đều. Sau lớp gạo là lớp đậu bên trong, cũng san đều sau đó đặt thịt ba chỉ cho vào giữa. Sau đó tiếp tục cho thêm một lớp đậu nữa lên trên lớp thịt và cuối cùng là một lớp gạo. Chú ý không để nhân hở ra ngoài, Sau khi gói bánh xong phải nắn bánh cho vuông, rồi mới được buộc lạt vào bốn góc. Gói xong, úp từng đôi bánh thành một cặp, buộc chặt bằng lạt rồi lại dùng lạt buộc tiếp một đôi bánh khác. Khi đã xong xuôi đâu đấy, ta chuẩn bị cho công đoạn nấu bánh chưng.

    Phải chuẩn bị gạch kê nồi đầu tiên, ba chồng gạch nhỏ ở ba góc nồi. Rồi đến củi lửa. Sau đó đặt nồi lên ba chồng gạch, rồi xếp bánh. Chú ý khi xếp bánh phải xếp dọc bánh. Cách xếp này vừa tiết kiệm diện tích nồi vừa giúp cho bánh dễ chín đều hơn. Sau đó nồi mới được cho nước và nhóm lửa. Người nấu bánh thường canh giờ tính từ lúc nước sôi và duy trì nước sôi liên tục, phải đun bánh từ 10-12 giờ. Trong quá trình đun, thi thoảng phải kiểm tra lương nước, nếu thấy nước cạn thì phải đổ thêm nước nóng để đảm bảo nước luôn ngập bánh. Không được đổ thêm nước nguội nếu không sẽ làm hỏng bánh. Nên để sẵn chậu nước bên cạnh nồi để tận dụng nhiệt lượng. Những chiếc bánh ở trên nên được lật giở để giúp bánh chín đều hơn. Sau khi đun bánh xong, vớt bánh ra vừa rửa qua nước để sạch lớp mỡ dính trên vỏ ( chỉ rửa lướt qua, không nên để bánh dưới dòng nước quá lâu nếu không nước sẽ tràn vào bên trong bánh ). Rửa bánh xong phải xếp bánh ngay ngắn trên một mặt phẳng, sau đó lấy một mặt phẳng khác đè lên trên để ép hết nước trong bánh ra ngoài ( chỉ nên ép trong 2-3 giờ  nếu không bánh sẽ bị méo ). Sau đó, phải nắn bánh sao cho vuông, cho đẹp và vừa mắt. Để bảo quản bánh, ta nên treo bánh lên hoặc để nơi khô ráo, thoáng mát, tránh bị chuột khoét.

    Bánh chưng rất ngon nếu được chế biến và thưởng thức đúng cách. Bóc bánh ra, phải nhẹ nhàng bóc lấy từng lớp vỏ xanh mướt, ta có thể thấy bánh nhìn rất đẹp, rất dẻo và rất xanh là bánh chưng đã đủ ngon. Cắt bánh, chúng ta có thể dùng luôn lạt buộc bánh, tùy cắt làm mấy khúc. Bánh chưng muốn đậm đà hơn có thể ăn kèm với giò lụa và cá kho.

    Bánh chưng có rất nhiều loại: bánh chưng ngũ sắc, bánh chưng gấc, bánh chưng cốm,… Bánh chưng ngũ sắc là loại bánh chưng có 5 màu tương trưng cho: Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ. Bánh chưng

    tuy có các loại khác nhau nhưng luôn mang trong mình cùng một ý nghĩa thiêng liêng: tương trưng cho đất mẹ bao la, có đầy đủ nguyên liệu gạo thịt tượng trưng cho muôn loài.

    Vào ngày Tết, trên bàn thờ của mỗi gia đình đều không thể thiếu được chiếc bánh chưng. Chiếc bánh chưng là hương vị của Tết, thiếu bánh chưng như thiếu hẳn đi hương vị Tết.

    Kỉ lục chiếc bánh chưng lớn nhất thuộc về chiếc bánh chưng được gói ở lễ hội Đền Hùng. Nó rất to, vĩ đại và đã được UNESCO công nhận là chiếc bánh chưng lớn nhất thế giới.

    Bánh chưng là một sản vật quý giá mà ông cha ta truyền lại cho con cháu đời sau, là một nét đẹp văn hóa lâu đời. Nó là một thứ bánh hoàn hảo, không thể thiếu trong dịp lễ Tết của người miền Bắc nói riêng và toàn dân tộc Việt Nam nói chung. Nó là biểu tượng của tổ tiên, là một nét đẹp truyền thống cần phải gìn giữ và phát huy.

      bởi Vũ Minh Khang 04/03/2020
    Like (0) Báo cáo sai phạm

Nếu bạn hỏi, bạn chỉ thu về một câu trả lời.
Nhưng khi bạn suy nghĩ trả lời, bạn sẽ thu về gấp bội!

Lưu ý: Các trường hợp cố tình spam câu trả lời hoặc bị báo xấu trên 5 lần sẽ bị khóa tài khoản

Gửi câu trả lời Hủy
 
NONE

Các câu hỏi mới

AANETWORK
 

 

YOMEDIA
ATNETWORK
ON