YOMEDIA
NONE

Liệt kê các thành tựu văn hóa cổ đại

hãy liệt kê các thành tựu văn hóa cổ đại và nêu ý nghĩa, tác dụng của các thành tựu văn hóa đó đối với nhân loại 

Theo dõi Vi phạm
ADSENSE

Trả lời (1)

  • 1. Chữ viết
    Những thành tựu huy hoàng của văn minh Hi Lạp đã trở thành mẫu mực và đỉnh cao cuả nhiều thời đại. Đó là kết quả của một nền kinh tế phát triển cao, một thể chế dân chủ không bị chi phối bởi tôn giáo và sự tiếp thu một cách tinh tế những thành tựu của văn hóa phương Đông.
    Chữ viết của Hi Lạp đã xuất hiện từ thời Crete – Mycenae. Vào những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, người ta đã tìm thấy hàng nghìn tấm đất sét được khắc chữ cổ được xác định là của thời kì này.
    Sau khi bị người Dorien thống trị, loại chữ trên đã bị mai một. Đến cuối thế kỉ VII TCN, người Hi Lạp khôi phục lại chữ viết của mình trên cơ sở văn tự của người Phoenicia. Đến năm 403 TCN, nhà nước Athens đã thống nhất quy định thể thức viết từ trái sang phải và giảm từ 40 chữ cái xuống còn 27 chữ 9sau này rút lại còn 24 chữ). Loại chữ này được sử dụng rộng rãi và được coi là thứ chữ đẹp nhất thế giới bởi sự cân đối, hài hòa, thanh nhã và tiện dụng.
    So với hệ thống chữ tượng hình của người phương Đông, hệ thống chữ cái Hi Lạp đã đạt đến trình độ khái quát hóa rất cao. Với khoảng hơn 20 chữ cái người ta có thể diễn đạt mọi ý tưởng trừu tượng nhất bằng cách ghép chữ dựa theo âm tiết. Đây là một trong những cống hiến lớn lao của Hi Lạp vào kho tàng văn hóa chung của nhân loại. Từ chữ cái Hy Lạp cổ sau này đã hình thành nên chữ cái Latinh và chữ cái Cyrill (của các ngôn ngữ gốc Slav). Đó là các cơ sở chữ cái mà nhiều dân tộc trên thế giới ngày nay đang sử dụng.
    Tiếng Hy Lạp viết bằng bảng chữ cái Hy Lạp có từ thế kỷ thứ 8 trước Công nguyên. Bảng chữ cái Hy Lạp bao gồm:
    Chữ Hoa:
    ΑΒΓΔΕΖΗΘΙΚΛΜΝΞΟΠΡΣΤΥΦΧΨΩ.
    Chữ Thường:
    αβγδεζηθικλμνξοπρσ (ς), τυφχψω.
    Tiếng Hy Lạp được dạy trong các trường và đại học ở nhiều nước từ thời Phục hưng trở đi. Tiếng Hy Lạp hiện nay có khác nhiều so với tiếng Hy Lạp cổ đại nhưng vẫn có thể nhận ra nhiều điểm giống nhau. Trên thế giới có khoảng 12 triệu người sử dụng tiếng Hy Lạp (ở Hy Lạp và những quốc gia có người Hy Lạp sinh sống).
    Ở La Mã, chữ viết của người Etrusque xuất hiện vào khoảng thế kỉ VIII – VII TCN nhưng đến hiện giờ người ta vẫn chưa đọc được loại chữ này. Theo nhiều nguồn tài liệu, người La Mã chính thức có chữ viết vào thế kỉ VI TCN có nguồn gốc từ văn tự Hi Lạp. Trên cơ sở chữ viết Hy Lạp cổ, người La Mã đã bổ sung và hoàn thiện, đặt ra một loại chữ riêng của mình mà ngày nay ta quen gọi là chữ Latinh.
    Với hệ thống chữ viết đơn giản và tiện lợi, tiếng Latinh đã ngày càng trở nên phổ biến và được sử dụng rộng rãi ở các nước thuộc đế chế La Mã. Chữ Latinh chính là nguồn gốc của nhiều ngôn ngữ châu Âu hiện đại (Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp…Người La Mã còn để lại hệ thống chữ số mà ngày nay người ta vẫn thường dùng và quen gọi là chữ số La Mã.
    Có  thể nói, từ bảng chữ cái Latinh, chúng ta có những ngôn ngữ mà ngày nay được sử dụng làm ngôn ngữ chung cho cả thế giới, trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, khoa học, nghệ thuật…mang mọi nền văn hóa của các quốc gia dần xích lại gần nhau hơn.
    2. Văn học
    Văn học Hi Lạp gồm 3 bộ phận gắn bó chặt chẽ với nhau: thần thoại, thơ, kịch. Theo tiếng Hi Lạp thần thoại có nghĩa là một tập hợp, tổng thể những câu chuyện dân gian truyền miệng với những nội dung hoang đường, kì ảo gồm những truyện về sự sáng tạo thế giới, các đấng thần linh, các anh hùng, dũng sĩ Hi Lạp...Điểm nổi bật trong thần thoại Hi Lạp chính là hình ảnh các vị thần. Hệ thống các vị thần trong thần thoại Hi Lạp đa dạng và phong phú, được miêu tả rất gần với cuộc sống đời thường của con người, khác với các vị thần của phương Đông. Sau này người La Mã đã tiếp thu các vị thần của Hi Lạp và cải biên đi thành các vị thần của mình:
    -   Thần Zeus – thần Jupiter: thần sấm sét tối cao trong 12 vị thần trên đỉnh Olympus
    -   Nữ thần Aphrodite – nữ thần Venus: thần tình yêu và sắc đẹp
    -   Nữ thần Demeter – nữ thần Cerès: nữ thần nông nghiệp
    Thần thoại Hi Lạp là những câu chuyện rất hấp dẫn về các vị thần và các anh hùng với những tính cách, khát vọng, tình cảm gần gũi với con người. Đằng sau cái vẻ cổ xưa thần thoại là những vấn đề nhân văn và nhân sinh rất con người được thể hiện qua hình ảnh các vị thần. Không phải ngẫu nhiên mà cho đến nay vô số chủ đề thơ kịch, tiểu thuyết của châu Âu lấy đề tài từ những vị thần của Hi Lạp. Những giá trị nhân văn của văn học Phục hưng có thể được bắt nguồn từ đây.
    Thần thoại Hi Lạp là nguồn cảm hứng cho nhiều lĩnh vực nghệ thuật khác của Hi Lạp: thơ, kịch, kiến trúc, điêu khắc…
    Về thơ ca, nổi bật lên là 2 bộ sử thi Iliade và Odixe của Homer, có giá trị cả về lịch sử lẫn văn học, để lại cho thế giới nhiều điển tích VH cho đến ngày nay: gót chân Asin, con ngựa thành Troy…Hai bộ sử thi này cũng được nhiều nhà văn, nhà thơ La Mã lựa chọn đề tài để sáng tác.
    Nghệ thuật kịch Hi Lạp ra đời và phát triển rực rỡ với nhiều nhà soạn kịch nổi tiếng: Etsin, Sôpôclơ…Đây chính là nguồn gốc của kịch châu Âu đương đại. Sau này chính Shakespear là người đã kế thừa truyền thống và tinh hoa của kịch Hi Lạp, La Mã cổ đại đưa nghệ thuật kịch lên tuyệt đỉnh.
    Nghệ thuật kịch Hi Lạp đã cho ra đời một công trình kiến trúc khá hiện đại và quy mô: nhà hát Athens.
    Văn học La Mã về sau chủ yếu tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học Hi Lạp. Hai tập sử thi nổi tiếng của Hi Lạp là Iliat va Ôđixe đã trở thành nguồn cảm hứng cho các nhà thơ, nhà soạn kịch La Mã tiêu biểu như nhà thơ Vieecsgilut với trường ca Eneit có chủ đề, kết cấu, tình tiết ngôn từ được phỏng theo sử thi Iliat và Ôđixe. Hay các nhân vật trong Iliat và Ôđixe như tráng sĩ Agamemnong trở thành nhân vật trong vở Orextex của Etsin.
    Thời kì Phục hưng, trên cơ sở kế thừa những thành tựu của văn học Hi Lạp và La Mã, văn học Tây Âu phát triển rực rỡ, để lại nhiều tác phẩm giá trị cho văn học thế giới.
    Về thơ ca, tiêu biểu là Đantê với “Thần khúc”, mở đầu cho thơ ca thời kì phục hưng. Ngoài ra còn có Pêtêraca, Bôcaixô…đây đều là những tác giả say mê nghiên cứu và chịu những ảnh hưởng nhất định từ nền văn học của Hi Lạp và La Mã. Về tiểu thuyết, Rabơle được xem là học giả vĩ đại nhất của văn học Phục hưng Pháp  với tác phẩm “Cuộc đời đáng chán của người khổng lồ Gácgăngchuya và người con Păngtagruyen”, trở thành cha đẻ của hai nhân vật khôi hài nhất trong lịch sử văn chương. Đặc biệt trong nền văn học Phục hưng nổi lên một học giả lừng danh là nhà văn Xecvantec với tác phẩm Đônkihôtê. Cuốn tiểu thuyết là một bắc tranh chân thực, rõ ràng về xã hội Tây Ban Nha thế kỉ XVI, đồng thời cũng là tác phẩm châm biếm toàn bộ xã hội phong kiến. Giá trị và ảnh hưởng của tác phẩm không cần phải nói gì nhiều, chỉ nghe đến tên thì rất nhiều người biết rất rõ về tác giả và tác phẩm, đủ cho thấy tầm ảnh hưởng của nó rộng rãi như thế nào.
    Về kịch, đại văn hào William Shakespears đã trở thành nhà soạn kịch vĩ đại của không chỉ của nước Anh mà của cả thế giới với các tác phẩm: Romeo và Juliet, Hămlet, Macbeth, vua Lear…Những tác phẩm của ông vừa mang tính chất bi kịch vừa mang tính chất hài kịch nhưng tràn đầy một sức sống huy hoàng, mạnh mẽ. Tài năng và tầm ảnh hưởng của ảnh hưởng của ông đã được cả thế giới công nhận “Shakespear không chỉ thuộc về nước Anh mà ông thuộc về mọi thời đại”, các tác phẩm của ông cho đến ngày nay vẫn đang được biểu diễn trên khắp các sân khấu kịch châu Âu và thế giới. Tài năng của Shakespears được K. Marx và F. Engels nhắc nhiều trong các tác phẩm của mình.
    Tại Việt Nam, sau 1975 ở trường phổ thông và đại học đã bắt đầu giảng dạy một số tác phẩm của Shakespear
    3. Nghệ thuật
    Trong số những thành tựu rực rỡ của nền văn minh Hi Lạp và La Mã thời kì cổ trung đại đối với thế giới, người ta đặc biệt ghi nhận sự đóng góp của những thành tựu về nghệ thuật, bao gồm 3 lĩnh vực: kiến trúc, điêu khắc, hội họa. Văn minh Hi-La được xem là nền tảng, là cơ sở của văn minh Tây Âu – châu Âu cận hiện đại, có thể nói nếu không có những thành tựu của văn minh Hi-La thì không thể có văn minh Tây Âu  trung đại và châu Âu ngày nay. Trên nền tảng của nghệ thuật Hi-La, nghệ thuật Phục hưng đã kế thừa và phát triển một cách rực rỡ, để lại những giá trị và thành tựu đặc sắc, đưa nghệ thuật Tây Âu mang tầm giá trị thời đại.
    3.1 Kiến trúc
    Mặc dù kế thừa những thành tựu nghệ thuật của Ai Cập và Lưỡng Hà nhưng ngwời Hi Lạp đã sáng tạo và phát triển một cách mạnh mẽ phong cách nghệ thuật riêng biệt của mình, tạo ra những giá trị nghệ thuật đạt mức điêu luyện. Trong lĩnh vực kiến trúc, người Hi Lạp đã tạo ra những công trình kiến trúc bất hủ với thời gian.
    Công trình kiến trúc đẹp nhất của Hi Lạp là đền Parthenon. Đây được xem là kiệt tác về kiến trúc và là biểu tượng của kiến trúc Hi Lạp cổ. Người xây dựng nên công trình này là là kiến trúc sư Ictinus dưới sự hướng dẫn của nhà điêu khắc thiên tài Phidias.
    Tọa lạc trên đỉnh đồi Acropolis, từ đây người ta có thể quan sát toàn bộ khu vực Athens. Đền Parthernon dài 70 m, rộng 314 m, cao 14 m được xây dựng để thờ nữ thần Athena, vị thần bảo hộ của Athens. Toàn bộ đền được xây bằng đá trắng, xung quanh là dãy cột đã cẩm thạch hình tròn được chạm khắc tinh vi. Công trình thể hiện tài năng của một bậc thầy xuất chúng về kiến trúc và điêu khắc. Kiệt tác này được giữ nguyên vẹn suốt 2000 năm, đến 1697 mới bị chiến tranh tàn phá.
    Trong nghệ thuật kiến trúc của Hi Lạp, người ta dễ dàng nhận thấy nổi bật lên lối kiến trúc cột. Kiến trúc cột là cách người Hi Lạp tìm kiếm vẻ đẹp lý tưởng trong nghệ thuật kiến trúc. Những thức cột Hy Lạp đã mang đến cho kiến trúc một hình thức, một sức sống, chịu đựng được thử thách của thời gian, biểu trưng cho vẻ đẹp trong sáng, khỏe mạnh và tinh tế của kiến trúc cổ điển. Có 3 loại thức cột cơ bản trong kiến trúc Hy Lạp: cột Doric, cột Ionic và cột Corinth.        Thức cột Hy Lạp được xem như biểu tượng của kiến trúc cổ điển.
    Công trình tiêu biểu: quần thể Aropolis ở Athens, trong đó có đền Pathernon.
    *Ngôi đền Delphi, sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc Hi Lạp và vùng tiểu Á được xây dựng vào thế kỉ V TCN để thờ thần Apolo – thần mặt trời (nay thuộc thành phố Ephesus – Thổ Nhĩ Kì).
    Mãi đến thời đế chế, nghệ thuật La Mã mới có điều kiện phát triển mang tính chất riêng biệt và phản ánh đúng bản sắc nghệ thuật dân tộc. Mặc dù chịu ảnh hưởng nhất định của nghệ thuật Hi Lạp nhưng người La Mã cũng đã tạo ra những công trình mang đậm bản sắc riêng của mình với số lượng và quy mô vượt trội.
    Kiến trúc La Mã mang tính chất thực dụng, bề thế và đồ sộ. Khi thiết kế những công trình kiến trúc, người La Mã chú ý đến tính năng sử dụng của nó hơn là sự hài hòa, cân đối giữa công trình với môi trường xung quanh. Những đường nét uốn lượn thay bằng những nét sổ thẳng hình học, vóc dáng các công trình đơn điệu, nặng nề nhưng vững chắc.
    Ba công trình tiêu biểu cho nghệ thuật và nếp sống của người La Mã là đấu trường Colosseum, nhà tắm Caracalla và đền thờ Pantheon.
    Kiến trúc của đấu trường Colosseum biểu hiện cho sự hùng cường và vĩ đại của đế chế La Mã triều đại Flavius. Công trình được xây dựng trong suốt 8 năm, chu vi 524m, bao gồm nhiều tầng với vật liệu chủ yếu là đá cẩm thạch. Theo tính toán hiện nay, đấu trường chứa được khoảng 45.000 đến 50.000 người. do sự hủy hoại cuả thiên nhiên và con người, công trình hiện nay chỉ còn khoảng một phần ba.
    Caracalla là một công trình nhà tắm công cộng được hoàn thành dưới thời hoàng đế Alexander năm 235 với tổng diện tích lên đến 14.000 hecta. Đây không chỉ đơn thuần là nơi giải trí mà còn là một công trình văn 
    hóa với các thư viện và phòng đọc sách, được trang bị các khu thi đấu thể thao, nghỉ dưỡng, nhà hàng ăn, phòng trưng bày nghệ thuật…Đây là một sự tiến bộ không chỉ về nghệ thuật mà còn là sự văn minh trong đời sống văn hóa của người La Mã.
    Đền Pantheon được xây dựng dưới thời hoàng đế Agustus. Công trình bị hủy hoại sau  hai trận hỏa hoạn và được xây dựng lại vào thời hoàng đế Hadrian (117-138) sau đó được chuyển thành nhà thờ Công giáo.
    Đặc điểm nổi bật của kiến trúc La Mã chính là kĩ thuật vòm cuốn, có thể thấy được qua những công trình kiến trúc tiêu biểu.
    Đấu trường Colosseum của La Mã và đền Parthenon của Hi Lạp là 2 trong số 7 kì quan của thế giới cổ đại.
    èNhững thành tựu của kiến trúc Hi-La cổ đại đã được thế giới thừa nhận và ứng dụng cho những công trình kiến trúc hiện đại.
    Kiến trúc thời Phục hưng mang đậm nét tôn giáo, đặc biệt là đạo Thiên chúa, nổi bật lên với 2 phong cách kiến trúc tiêu biểu là kiến trúc Gôtich và Roman. Cả hai phong cách kiến trúc này đều là sự kế thừa và phát triển từ nghệ thuật kiến trúc của Hi Lạp và La Mã cổ đại. Nghệ thuật  kiến trúc thời Phục hưng thể hiện sự giàu có, lộng lẫy cao sang quý phái.
    Những thánh đường Kitô giáo có kiến trúc chủ yếu mang phong cách Roman, Gô tích và Cổ điển Hy Lạp-La Mã. Khi đạo Kitô phát triển mạnh mẽ, những phong cách kiến trúc này đã được mang đến khắp nơi trên thế giới.
    è Tóm lại, kiến trúc châu Âu ngày nay được phát triển trên nền tảng của kiến trúc thời cổ trung đại của Hi-La và Tây Âu. Mức độ ảnh hưởng và phát triển không chỉ ở trong phạm vi châu Âu mà đã lan rộng toàn thế giới. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra phong cách kiến trúc châu Âu ở rất nhiều công trình kiến trúc lớn, nhỏ ở rất hầu hết quốc gia trên thế giới hiện nay.
    3.2 Hội họa và điêu khắc
    Cùng với nghệ thuật kiến trúc với những công trình đã trở thành kiệt tác của nhân loại, nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp cũng được xem là những giá trị có một không hai trong nền nghệ thuật thế giới. Hai nhà điêu khắc vĩ đại nhất của Hi Lạp là Praxitele và Scopas ở thế kỉ IV TCN. Tượng thần Hermes và thần Aphrodite (thần vệ nữ - Venus), được xem là những mẫu mực của nghệ thuật điêu khắc cổ đại, thể hiện vẻ đẹp hoàn hảo của nam và nữ. Cho đến ngày nay, với một nền nghệ thuật hiện đại, chưa có nơi nào mà nghệ thuật điêu khắc vượt qua trình độ nghệ thuật của người Hi Lạp cổ đại. Bức tượng thần Zeus ở Olympia, một trong 7 kì quan của thế giới cổ đại cũng được tạo ra bởi nhà điêu khắc của Hi Lạp là Phidias.
    Ngoài ra, tượng nữ thần Athena và tác phẩm lực sĩ ném đĩa cũng được xem là những tác phẩm tuyệt vời thể hiện trình độ bậc thầy của nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp cổ đại.
    Về hội họa người Hi Lạp cũng có nhiều thành tựu rỡ nhưng rất tiếc các phẩm hiện nay không còn được lưu giữ. Theo nghiên cứu, những họa sĩ Hi Lạp là người đã phát minh ra phép phối cảnh theo tỉ lệ xa gần của các nhân vật trong tranh. Ngày nay người ta chỉ còn lưu giữ một số tác phẩm do người La Mã phỏng theo họa mà ra.
    Đỉnh cao của hội họa phương Tây chính là hội họa thời Phục hưng. Bước sang thế kỉ XVI, nghệ thuật Phục hưng phát triển đến đỉnh cao với các tên tuổi của Leonardo da Vinci, Michelangelo, Raphael…Đặc điểm nổi bật của hội họa thời Phục hưng chính là sự biểu hiện tinh tế đời sống nội tâm, chiều sâu cá tính của nhân vật. Điều này được thể hiện rất rõ qua nhiều tác phẩm nổi tiếng của các họa sĩ thời kì này.
    Leonardo da Vinci (1452-1519) là một thiên tài của nước Ý trên lĩnh vực nghệ thuật. Ông không những là một hoạ sĩ thiên tài mà còn là một con người thông thái trên nhiều lĩnh vực. Ông đã để lại những bức hoạ nổi tiếng như Bữa tiệc cuối cùng, Nàng La Joconde , Đức mẹ đồng trinh trong hang đá… Ông nghiên cứu rất kĩ và sâu sắc về tâm lý, giải phẩu; xác định cá quy luật phối cảnh, ánh sáng… Từ thế kỉ XV, ông đã đưa ra ý tưởng sử dụng cánh quạt đẩy nước cho thuyền thay mái chèo; vẽ ra nguyên tắc hoạt động của máy bay trực thăng, dù thoát hiểm...nhưng những kĩ thuật hồi đó không cho phép ông thực hiện những ý tưởng của mình.
    Michelangelo (1475-1564) cũng là một người Ý, sống cùng thời với Leonardo da Vinci. Ông là một danh hoạ, một nhà điêu khắc nổi tiếng, đồng thời còn là một kiến trúc sư, một thi sĩ. Ông là người đã đưa điêu khắc Phục hưng đến tuyệt đỉnh. Tác phẩm điêu khắc nổi tiếng nhất của ông là bức tượng David. Tượng được tạc trên đá cẩm thạch cao 5.3m, thể hiện một chàng thanh niên đang độ đôi mươi với cơ bắp khoẻ mạnh, vầng trán thông minh, ánh mắt tự tin, sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn thử thách. Mượn hình tượng David, Michelangelo thể hiện sức sống đang lên của một lớp người đại diện cho một thời đại mới, thời đại cần những con người khổng lồ và đã sản sinh ra những con người khổng lồ. Ông là kiến trúc sư đầu tiên thiết kế thánh đường Xanh Pie (nhà thờ thánh Peter ở La Mã), sau khi ông mất nhiều chi tiết đã bị thay đổi nhưng nguyên mẫu vẫn là thiết kế của ông.
     Về hội họa ông cũng đã để lại nhiều tác phẩm tiêu biểu: Sáng tạo thế giới, Cuộc phán xét cuối cùng…Trong đó  tác phẩm lớn nhất là bức họa Sáng tạo thế giới với 343 nhân vật được ông vẽ trong 4 suốt 4 năm. Tác phẩm này được trang trí trên trần nhà thờ Sistine ở Vatican.
    Raphael Sanzio (1483-1520) cũng là một họa sĩ thiên tài người Ý. Tác phẩm của ông thường thể hiện quang cảnh vui tươi, êm dịu, cuộc sống sung túc; hình ảnh những người phụ nữ đẹp, hiền hậu; trẻ em ngây thơ… Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Người làm vườn xinh đẹp; ngoài ra còn có các bức tranh về Thánh mẫu…
    4. Giáo dục
    Tại Hi Lạp, trong giai đoạn phát triển rực rỡ của nhà nước Athens và Spart, giáo dục đã được chú trọng. Trong khi thành bang Spart chủ yếu chú trọng đến giáo dục quân sự thì Athens xây dựng một nền giáo dục theo hướng tự do dân chủ.
    Tại La Mã, dưới thời kì đế chế, giáo dục phát triển với những nội dung, đề tài giáo dục liên quan nhiều đến chính trị, chiến tranh, chủ yếu để đào tạo những ra những thủ lĩnh quân sự, những nhà lãnh đạo, quản lý chính quyền.
    Trong thời kì cổ đại, giáo dục Hi Lạp và La Mã tuy còn sơ khai nhưng được xem là cực kì tiến bộ. Họ đào tạo ra những con người họ cần cho đất nước theo những phương pháp chủ động, tích cực. Những môn học được giảng dạy ở thời kì này bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau: chính trị, quân sự, văn hóa, lịch sử, xã hội, ngữ pháp, hùng biện, logic…với phương pháp học đòi hỏi sự tư duy và lý luận sâu sắc. Đây là nền tảng quan trọng cho một nền giáo dục Tây Âu đương đại.
    Đến trước thế kỉ X, giáo dục Tây Âu chịu ảnh hưởng nặng nề của giáo hội và kinh thánh. Đầu thế kỉ XI, cùng với sự phát triển về kinh tế, xã hội, sự đòi hỏi của con người về tri thức ngày càng cao nhiều trường đại học đã ra đời ở nhiều nước khi giáo dục giáo hội không còn đủ điều kiện để đáp ứng. Trường đại học ra đời sớm nhất là Đại học Bôlôna ở Italia. Sang thế kỉ XII, XIII, rất nhiều trường đại học khác đã lần lượt xuất hiện: Đại học Pari, đại học Oóclêăng (Pháp); đại học Oxford, đại học Cambridge (Anh); đại học Xalamanca ở Tây Ban Nha…Đến cuối thế kỉ XIV ở châu Âu đã có tất cả hơn 40 trường đại học.
    Ngôn ngữ được giảng dạy ở các trường đại học là tiếng Latinh. Phương pháp học tập là nghe giảng, ghi chép và thảo luận, trong đó thảo luận giữ vai trò rất quan trọng. Khi tốt nghiệp sinh viên phải làm và bảo vệ luận văn.
    èNhư vậy, ngay từ thời cổ đại, những con người năng động, tích cực của phương Tây đã tạo ra một nền giáo dục hết sức tiến bộ cả về phương pháp lẫn nội dung giảng dạy. Sự vượt trội về tư duy và phương pháp giáo dục ngay buổi đầu đã tạo một nền tảng khá vững chắc cho sự phát triển của giáo dục Tây Âu sau này. Những nội dung và phương pháp giáo dục thời cổ đại hầu như được tiếp nhận và áp dụng trong các thời kì sau. Điều này rất dễ lý giải cho sự tiến bộ vượt bậc và hiệu của nền giáo dục phương Tây hiện nay. Hầu hết những trường đại học thời trung đại hiện nay đều trở thành những trường đại học danh tiếng của thế giới, nơi đào tạo những con người với bộ óc tuyệt vời cho mọi quốc gia. Mọi quốc gia có nền giáo dục tiên tiến hiện nay đều tiếp nhận nền giáo dục tiên tiến của phương Tây.
    5. Tổ chức nhà nước và luật pháp
    Khi nói đến văn minh phương Đông người ta nhắc nhiều đến những thành tựu văn hóa thiên về lĩnh vực tinh thần còn khi nói đến văn minh phương Tây người ta hay nói đến những thành tựu văn minh thiên về giá trị vật chất cho nhân loại. Một trong số những thành tựu đó là tổ chức nhà nước và luật pháp.
    Trong hàng chục quốc gia thành thị của Hi Lạp thì Athens có hình thức nhà nước dân chủ điển hình nhất và giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của Hi Lạp cổ đại. Ra đời trên cơ sở tan rã của xã hội thị tộc, nhà nước dân chủ chủ nô Athens dân chủ hóa và hoàn thiện qua những cải cách: cải cách Solon, cải cách Cleisthenes. Tổ chức bộ máy nhà nước gồm các cơ quan như: Đại hội nhân dân, Hội đồng nhân dân (hội đồng 500), Tòa án nhân dân, Hội đồng cấp chính (hội đồng trưởng lão )…được sửa đổi và bổ sung qua từng thời kì khác nhau nhằm tăng cường và hoàn thiện thể chế dân chủ. Đỉnh cao của thể chế nhà nước Athens là dưới thời Pericles.
    Nếu như trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật người La Mã được xem như một học trò của người Hi Lạp thì về mặt luật pháp, người La Mã được xem là bậc thầy. Cùng với những thành tựu khác, luật pháp của người La Mã cũng đã có những đóng góp nhất định vào nền văn minh chung của nhân loại.
    Khi nhà nước La Mã thành lập đã cho ban hành bộ luật thành văn đầu tiên Luật 12 bảng trên cơ sở kế thừa và tham khảo luật Solon của người Hi Lạp. Nội dung bộ luật khá rộng rãi và tiến bộ, nó chống lại sự xét xử độc đoán của quý tộc, bảo vệ quyền lợi và danh dự cho mọi công dân, đề ra những nguyên tắc về tố tụng, vấn đề thừa kế tài sản… Mặc dù còn nhiều hạn chế khi xét về bản chất vẫn là bảo hệ quyền lợi cho giai cấp quý tộc, tuy nhiên tại thời điểm đó, bộ luật là một sự tiến bộ đối với xã hội đương thời.
    6. Thể thao
    Thể thao Olympia của Hy Lạp cổ đại thể hiện tinh thần thượng võ và tín ngưỡng của các thành phố Hy Lạp. Hình thức thể thao này được ra đời từ năm 776 TCN và kéo dài tới năm 393. Được tổ chức mỗi 4 năm tại Olympia, Hy Lạp, số môn tham gia thi đấu chính thức có lúc lên đến 292 bộ môn khác nhau.
    Lịch sử xa xưa về các cuộc thi đấu Olympia của người Hy Lạp cổ đại bị phai mờ theo thời gian, tuy vậy nó vẫn sống lâu dài trong các câu chuyện truyền thuyết và thần thoại Hy Lạp.
    Thế vận hội Olympic ngày nay chính là sự bắt nguồn từ thể thao của Hi Lạp. Cũng 4 năm tổ chức một lần tại các thành phố lớn, thế vận hội Olympic đã trở thành thành sân chơi thể thao của cả thế giới với nhiều nội dung thi đấu phong phú và đa dạng. Olympic hiện nay là đỉnh cao của thể thao nhân loại. Năm 2004 Olympic được tổ chức tại Athens – Hi Lạp, lần đầu tiên được trở về với nơi mà hoạt động thể thao này đã ra đời từ thời cổ đại.
    6. Tôn giáo
    Thời cổ đại, người Hy Lạp theo đa thần giáo. Về sau khi tiếp xúc với nền văn hóa Hy Lạp, người La Mã đã tiếp thu toàn bộ hệ thống thần thoại Hy Lạp và đổi tên gọi các vị thần Hy Lạp theo kiểu La Mã.
    Đến cuối thế kỉ thứ II - đầu thế kỉ thứ I – TCN, đạo Kitô ra đời ở La Mã. Trong buổi đầu, đạo Kitô là tôn giáo của những người nghèo khổ, của những người chịu nhiều áp bức trong xã hội. đạo tuyên truyền những tư tưởng bình đẳng, bác ái của con người trước Chúa, lòng tin nơi thiên đàng và lên án chế độ thống trị hà khắc của chính quyền lúc bấy giờ. Đạo có nhiều ảnh hưởng đến các tầng lớp trong xã hội và vượt ra khỏi phạm vi La Mã.
    Hiện nay, đạo Kitô là một trong những tôn giáo lớn của thế giới, tầm ảnh hưởng lan rộng hầu khắp các quốc gia.
    Thời kì trung đại, cùng với những cuộc cải cách tôn giáo đã cho ra đời tôn giáo mới trên cơ sở sự điều chỉnh và tách ra từ giáo hội Kitô: đạo Tin lành, Công giáo, Thiên chúa giáo...Đây đều là những tôn giáo lớn và có tầm ảnh hưởng đến thế giới.
    èTôn giáo phương Tây thời kì cổ trung đại qua các thời kì phát triển đã tác động nhiều mặt đến nền văn hóa-nghệ thuật thế giới: kiến trúc, hội họa, đieu khắc… và đời sống của con người. Hiện nay mức độ ảnh hưởng của các tôn giáo đã mang tầm thế giới. Sự ảnh hưởng của các tôn giáo hiện nay đối với thế giới là sự tác động đa chiều, nhiều mặt và phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau.
      bởi Nguyễn Văn Tuấn 15/09/2018
    Like (0) Báo cáo sai phạm

Nếu bạn hỏi, bạn chỉ thu về một câu trả lời.
Nhưng khi bạn suy nghĩ trả lời, bạn sẽ thu về gấp bội!

Lưu ý: Các trường hợp cố tình spam câu trả lời hoặc bị báo xấu trên 5 lần sẽ bị khóa tài khoản

Gửi câu trả lời Hủy
 
NONE

Các câu hỏi mới

AANETWORK
 

 

YOMEDIA
AANETWORK
OFF