Bài soạn Thực hành tiếng Việt trang 89 do HỌC247 biên soạn và tổng hợp dưới đây sẽ giúp các em nắm được những lưu ý cơ bản khi sử dụng ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Để nắm được nội dung của bài học này, các em có thể tham khảo thêm nội dung bài giảng Thực hành tiếng Việt trang 89. Mời các em cùng tham khảo. Chúc các em học tốt!
1. Tóm tắt nội dung bài học
1.1. Những lưu ý trong việc sử dụng ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết
- Tuỳ hoàn cảnh và mục đích giao tiếp.
- Cần đảm bảo sự nhất quán trong cách dùng từ ngữ, đặt câu phù hợp.
- Cần tránh tình trạng lạc phong cách.
1.2. Sự cộng hưởng giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết
Sự cộng hưởng giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết trong văn bản nghệ thuật tạo ra một số hiện tượng đặc biệt về lời văn như:
- Lời nửa trực tiếp (lời của người kể chuyện nhưng tái hiện ý thức, giọng điệu của nhân vật);
- Lời độc thoại nội tâm (tái hiện tiếng nói bên trong các nhân vật)
- Lời nhại (lời trần thuật mô phỏng quan điểm, ý thức của nhân vật với chủ ý mỉa mai hay bông đùa);...
2. Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 89
Câu 1: Hãy tìm trong các bài viết của mình hoặc bạn bè một số trường hợp diễn đạt “giống văn nói” và đề xuất cách chỉnh sửa.
Lời giải chi tiết:
- Ví dụ như trong bài viết miêu tả nhân vật thị Nở có câu: “Thị quá là xấu xí, khiến ma chê quỷ hờn, mọi người đều không để ý đến.” → câu văn này có chứa từ được dùng trong văn nói “ma chê quỷ hờn” vì vậy có thể sửa lại như sau: Thị Nở là một người đàn bà xấu xí đến mức mọi người đều xa lánh và không để ý đến thị.
- Khi viết về “Cầu hiền chiếu” có bạn viết: “Vua Quang Trung và Ngô Thì Nhậm quả là những người sáng suốt, họ đã nhận ra yêu cầu cấp thiết của thời đại và đưa ra được…”. → câu văn có sử dụng từ “quả là” thường được dùng trong văn nói vì vậy ta có thể sửa lại như sau: “Vua Quang Trung và Ngô Thì Nhậm đều là những người sáng suốt, họ đã nhận ra yêu cầu cấp thiết của thời đại và đưa ra được…”.
- Khi nói về “Vợ nhặt” của Kim Lân, có bạn viết: “Tràng đúng là một tên ngốc nghếch, đang trong lúc đói kém như vậy lại đèo bòng.” → từ chỉ văn nói ở đây là từ “đúng là” và ta có thể sửa lại như sau: “Tràng hẳn là một tên ngốc nghếch, đang trong lúc đói kém như vậy lại đèo bòng.”
Câu 2: Tìm trong văn bản Chí Phèo những đoạn có sự cộng hưởng giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
Lời giải chi tiết:
- “Tức thật! Tức thật! Ồ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất!...”
- “Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì nó có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha!”
- “Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết…”
- “Thôi thì cứ đóng cái cổng cho thật chặt rồi mặc thây cha nó… Thật là ầm ĩ! Hàng xóm phải một bữa điếc tau, nhưng có lẽ trong bụng thì họ hả…”
- “Không ai nói gì, người ta lảng dần đi. Vì nể cụ bá cũng có, nhưng vì nghĩ đến sự yên ổn của mình cũng có: người nhà quê vốn ghét lôi thôi?...”
- “… Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá…”
- “Buồn thay cho đời! Có lí nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao! Ngoài bốn mươi tuổi đầu…”
- “Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như “vợ chồng”. Tiếng “vợ chồng”, thấy ngường ngượng mà thinh thích…”
Câu 3: Chọn một cảnh có hội thoại trong một bộ phim hoặc một chương trình trên truyền hình và nhận xét đặc điểm của ngôn ngữ nói được thể hiện trong cảnh này. Từ đó, hãy đánh giá hiệu quả trình bày, truyền đạt thông tin bằng lời nói ở ví dụ mà bạn đã chọn.
Lời giải chi tiết:
Dẫn chuyện: trong một cảnh phim về gia đình, hai nhân vật mẹ và con đang nói chuyện với nhau về vấn đề điểm kém:
- Mẹ: Sao điểm của con lại kém như vậy?
- Con: Con xin lỗi!
- Mẹ: Nhìn bạn X đi! Lần nào cũng xếp thứ nhất kia kìa! Rốt cuộc con học hành cái kiểu gì vậy hả?
(Cô bé rơi vào trầm tư rồi nhìn vào người mẹ…)
- Con: Rốt cuộc mẹ muốn con được điểm cao để làm gì? Để mẹ đi khoe với những người bạn khác của mẹ, để mẹ nở mày nở mặt… Mẹ có thực sự biết năng lực của con không?... Cái mẹ cần là tốt cho con hay là chỉ cần mấy cái con số kia?
- Mẹ:… Mẹ cũng chỉ muốn tốt cho con thôi!
- Con:… (Đi về phòng và đóng cửa lại)
→ Nhận xét:
- Trong cảnh này, ngôn ngữ nói được thể hiện qua những từ “như vậy”, “vậy hả”, “thôi”, “để làm gì”,… Đây đều là những ngôn ngữ dùng để đặt câu hỏi thể hiện sự nghi hoặc về một vấn đề nào đó, muốn được biết rõ nhưng với thái độ không bình tĩnh mà có chút nóng giận.
- Việc truyền đạt lời nói trong ví dụ này không hiệu quả bởi người mẹ vẫn chưa nhận được câu trả lời mà bà vốn muốn và câu trả lời của người con cũng không đầy đủ thông tin mà hỏi ngược lại. Nhưng đổi lại, ta có thể nhận thấy sự thay đổi trong nhận thức và cảm nhận của mỗi nhân vật, người mẹ vì muốn tốt cho con mình nên mới hỏi về vấn đề điểm số nhưng người con thì hiểu nhầm đó và cho rằng đó là sự đòi hỏi quá đáng và gây áp lực lên người con. Bởi vậy, trong cuộc đối thoại ta nhận thấy được tâm tư, tình cảm của nhân vật thay đổi theo chiều hướng xấu.
Câu 4: Thể hiện nội dung của hội thoại được chọn ở bài tập 3 bằng ngôn ngữ viết và nhận xét sự khác biệt về phương tiện ngôn ngữ biểu đạt trong hai trường hợp.
Lời giải chi tiết:
- Người mẹ cảm thấy thất vọng về điểm kém của con mình. Bà muốn biết nguyên nhân và hỏi cô bé sao lại bị điểm thấp như vậy. Trong khi đó, người bạn khác cũng đã tiến bộ lên nhiều với điểm số cao, bà quay sang hỏi con rốt cuộc học hành kiểu như thế nào. Cô bé sau một hồi trầm tư, dường như nỗi buồn và sự căm phẫn đã lên đến đỉnh điểm, cô quay sang hỏi mẹ mình bằng giọng điệu không hề bình tĩnh. Cô hỏi mẹ muốn điểm số cao để làm gì, là vì tốt cho cô hay chỉ đơn thuần là muốn đi khoe với những người khác… Người mẹ nghe xong dường như nhận thấy rằng hình như mình đã sai, bà ấp úng trả lời lại là vì muốn tốt cho cô gái. Nhưng câu trả lời ấy chỉ đổi lại là sự lạnh lùng và bỏ về phòng của cô bé.
→ Nếu như cách biểu đạt bằng văn nói mọi cảm xúc của nhân vật đều biểu hiện trên mặt ngôn từ, kể từ sự tức giận cho đến sự thỏa hiệp thì trong văn viết, tâm lý của mỗi nhân vật đều được diễn giải một cách cụ thể, giúp người đọc có thể hiểu được tâm lý của từng nhân vật qua những lời diễn giải mà không cần phải suy đoán hay dựa vào ngữ cảnh để nắm bắt tâm lý nhân vật như văn nói.
Câu 5: Phân tích những ưu thế và giới hạn của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
Lời giải chi tiết:
* Ngôn ngữ nói
- Trước hết nó là phương tiện sơ khai nhất, giúp con người có thể biểu đạt thông điệp, tình cảm, cảm xúc của mình một cách cụ thể bằng những từ ngữ trực tiếp thể hiện cảm xúc.
Ví dụ: khi bạn đang tức giận, sẽ là rất khó để kiềm chế cảm xúc của mình khi mắng một ai đó
- Trong ngôn ngữ nói, nhiều khi sự trau chuốt trong từ ngữ bị hạn chế, thường là sự thẳng thắn nên dẫn đến mất lòng, trong nhiều trường hợp nó có thể gây rạn nứt trong các mối quan hệ.
- Ngôn ngữ nói thường bị chi phối bởi các yếu tố tình cảm vì vậy nó thường xen lẫn cảm xúc của người nói một cách rõ ràng và khó kiểm soát.
* Ngôn ngữ viết
- Trái lại với ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết luôn được trau chuốt trong nội dung cũng như cách sử dụng từ sao cho phù hợp. Bởi vậy nó thường có nhiều sự mềm mại hơn trong cách biểu đạt. Ví dụ như viết thư, khi ta đang tức giận, nếu nói ra thành lời sẽ có khả năng làm rạn nứt mối quan hệ bởi cảm xúc lúc đó bị chi phối. Đổi lại nếu bạn viết thư, hay nhắn tin, bạn sẽ có thời gian nhìn lại những lời bạn định nói, trau chuốt nó để bớt gay gắt và nhẹ nhàng hơn, không chỉ người đọc thấy dễ chịu trong lòng mà người viết cũng cảm thấy nhẹ nhàng hơn.
- Nhưng trong một số trường hợp, ngôn ngữ viết thường dài, bị lan man khiến người nghe, người đọc khó nắm bắt được thông tin, hay bởi tính học thuật của nó mà việc tiếp thu sẽ trở lên khó khăn hơn. Lúc này ta sẽ cần đến sự giải thích của ngôn ngữ nói.
Ngoài ra, để củng cố và nâng cao kiến thức bài học được tốt hơn mời các em xem thêm:
- Soạn văn tóm tắt Thực hành tiếng Việt trang 89
3. Hướng dẫn luyện tập
Câu hỏi: Phân tích những đặc điểm của ngôn ngữ nói (từ ngữ trong lời nói cá nhân, sự miêu tả cử chỉ, điệu bộ, sự thay phiên vai người nói, người nghe, …) được ghi lại trong đoạn trích sau:
Chủ tâm hắn cũng chẳng có ý chòng ghẹo cô nào, nhưng mấy cô gái lại cứ đẩy vai cô ả này ra với hắn, cười như nắc nẻ:
- Kìa anh ấy gọi! Có muốn ăn cơm trắng mấy giò thì ra đẩy xe bò với anh ấy!
Thị cong cớn:
- Có khối cơm trắng mấy giò đấy! Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?
Tràng ngoái cổ lại vuốt mồ hôi trên mặt cười:
- Thật đấy, có đẩy thì ra mau lên!
Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng.
- Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ ! - Thị liếc mắt, cười tít.
(Kim Lân - Vợ nhặt)
Lời giải chi tiết:
Đặc điểm của ngôn ngữ nói trong đoạn trích:
- Sử dụng nhiều từ ngữ thường gặp trong lời ăn tiếng nói hàng ngày: mấy, có khối, nói khoác, sợ gì, đằng ấy, cười tít
- Miêu tả nhiều cử chị, điệu bộ (kèm theo lời nói): đẩy vai, cười nắc nẻ, cong cớn, ngoái cổ, lon ton chạy
- Các từ hô gọi: kìa, này, nhà tôi ơi, đằng ấy
- Các từ tình thái: có khối…đấy, đấy, sợ gì
- Ngoài ra trong đoạn trích các nhân vật tham gia đối thoại trực tiếp nên liên tục thay phiên đổi vai cho nhau.
4. Hỏi đáp về bài Thực hành tiếng Việt trang 89
Khi có vấn đề khó hiểu về bài soạn này cần giải đáp, các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn HỌC247 sẽ sớm trả lời cho các em.