YOMEDIA
NONE

Nguyên nhân nào dẫn tới sự sụp đổ của nhà nước Âu Lạc?

Nguyên nhân nào dẫn tới sự sụp đổ của nhà nước Âu Lạc? Từ đó em rút ra được bài học gì đối với công cuộc bảo vệ chủ quyền?

Theo dõi Vi phạm
ADSENSE

Trả lời (6)

  • do an dương vương chủ quan ko đề phòng ỉ lại vào cung thần

    bài học ý nghĩa : tự làm nhé !wink

      bởi Phạm Nguyễn Hoàng Anh 18/03/2019
    Like (1) Báo cáo sai phạm
  • YOMEDIA

    Video HD đặt và trả lời câu hỏi - Tích lũy điểm thưởng

  • hưng ơi tick cho tui

      bởi Đức Cường Phạm 19/03/2019
    Like (0) Báo cáo sai phạm
  • - Nguyên nhân:

         - Chủ quan,thiếu phòng thủ và nội bộ bị chia rẽ. Thiếu đoàn kết. Đó là nguyên nhân thất bại.

     -Bài học:

          + Không khinh thường giặc.

          + luôn đề cao cảnh giác.

          + Xây dựng khối toàn dân và nội bộ.

    Nhớ like cho mình nha.....laugh

      bởi Lê Như Bình 20/03/2019
    Like (4) Báo cáo sai phạm
  • heo Sử ký Tư Mã ThiênTriệu Đà, được lệnh chủ tướng Nhâm Hiêu, đem quân từ quận Nam Hải (Quảng Đông bây giờ) sang đánh Âu Lạc. Nhờ vào chuẩn bị quân sự tốt, An Dương Vương đã chống cự được hiệu quả. Theo Sử ký Tư Mã Thiên viết, Triệu Đà đem quân đến kinh đô nước Âu Lạc, thì thấy một tòa thành hình dáng cổ quái, không dám tấn công. Nên hạ lệnh cho quân đến núi Tiên Du (thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay) để hạ trại. Hôm sau ông cử tướng tiên phong Kiệt Tuấn (桀駿) dẫn 3.000 kỵ mã quân Tần đến gần Loa Thành do thám, bị các tay nỏ Liên châu trong thành bắn tên ra tua tủa như mưa, thây chết đầy nội, Kiệt Tuấn bỏ mạng. Triệu Đà chưa đánh đã mất một danh tướng nên buộc phải rút lui về Nam Hải. Trong thời gian này (208 TCN - 207 TCN) Quận úy Nam Hải là Nhâm Ngao bị bệnh nặng, Triệu Đà nhân dịp đó giết hết những quan lại nhà Tần bổ nhiệm ở Lĩnh Nam, cất quân đánh chiếm quận Quế Lâm, Tượng quận; tự xưng "Nam Việt Vũ Vương", chính thức ly khai khỏi nhà Tần. Trở lại tham vọng chinh Nam, ông cho gián điệp trà trộn xâm nhập vào nước Âu Lạc, dùng tài ngoại giao của mình và đút lót mua chuộc các thủ lĩnh người Tây Văn Lang vốn bất mãn với Thục Phán từ trước, từ năm 180 TCN và 179 TCN, các Lạc Tướng Tây Văn Langvà một số chúa Mường đã quy thuận Triệu Đà. Nhờ có bản đồ thành trì, cầu đường, sông núi Âu Lạc do các chúa Mường và các Lạc Tướngcung cấp, Triệu Đà nhanh chóng đánh bại và thuần phục hai chúa Mường: Sán chủ (tộc Sán Dìu) ở Phòng Thành Cảng và Mán chủ (tộc Sán Chay) ở Quảng Ninh ngày nay. Rồi xuôi quân lên Lạng Sơn và Cao Bằng khuất phục hai Nùng chủ của tộc Nùng Phàn Sình và Nùng Cháo. Tày chủ Lã Bính không chịu đầu hàng nên bị sát hại cả nhà. Ở Loa ThànhThục Phán bị những Lạc Hầu - Lạc Tướng phản bội che mắt, những trung thần như Cao Lỗ bị gièm pha ly gián, dần dần bị xa lánh khỏi vua. Đến khi Triệu Đà đánh thẳng vào trong thành Cổ LoaThục Phán mới cuống cuồng bỏ chạy. Cao Lỗ và những người trung thành với Thục Phánbiết tin, hợp lực lại ra đón đường chặn đánh quân Triệu Đà cho chủ chạy thoát, Thục Phán chạy xuống phía nam, uất hận mất nước mà tự sát, nhóm Cao Lỗ cũng bị tiêu diệt sạch. Sau khi diệt xong Âu LạcTriệu Đà sáp nhập lãnh thổ vừa chiếm được vào Bách Việt, tự xưng mình là Triệu Vũ Đế, đổi tên nước thành Nam Việt. Ông áp dụng chính sách "hòa tập Bách Việt" đồng thời tăng cường chính sách "Hoa Việt dung hợp", Âu Lạc chính thức mất từ đây.

    Theo truyền thuyết của người Việt thì Triệu Đà dùng kế nội gián bằng cuộc kết hôn giữa con trai mình, Trọng Thủy, và con gái An Dương Vương là Mỵ Châu. Sau khi nắm được bí mật quân sự của An Dương Vương thông qua con trai, Triệu Đà đã thành công trong việc chinh phục Âu Lạc, buộc An Dương Vương bỏ chạy và tự tử, kết thúc thời kỳ An Dương Vương.

    Về năm mất của triều đại An Dương Vương, các tài liệu ghi chép khác nhau. Đa phần sách sử Việt Nam (Đại Việt Sử ký Toàn thưKhâm định Việt sử Thông giám Cương mụcViệt sử Tiêu án) đều chép là An Dương Vương mất nước năm 208 TCN. Sách giáo khoa của Việt Nam căn cứ vào Sử ký của Tư Mã Thiên ghi nước Âu Lạc mất năm 179 TCN. Sở dĩ như vậy vì Sử ký chép là Triệu Đà diệt nước Âu Lạc "sau khi Lã Hậu chết", mà Lã Hậu chết năm 180 TCN, do đó nước Âu Lạc mất khoảng năm 179 TCN. Truyền thuyết An Dương Vương, Nỏ Thần, và con trai Triệu Đà là Trọng Thuỷ ở rể nước Việt có nhiều chỗ không hợp với Sử ký của Tư Mã Thiên, mặc dầu Sử ký là nguồn tư liệu sớm nhất mà các nhà viết sử Việt Nam có được để tham khảo.

    Sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục chép dẫn theo sách Thái bình hoàn vũ ký, phần “Nam Việt chí” của Nhạc Sử nhà TốngAn Dương Vương cai trị Giao Châu, Úy Đà đem quân sang đánh. An Dương Vương có Cao Thông (Cao Lỗ) giúp đỡ, chế ra cái nỏ, bắn một phát giết chết quân [Nam] Việt hàng vạn người, bắn ba phát giết đến ba vạn. Triệu Đà biết rõ duyên cớ, liền lui về đóng ở Vũ Ninh, rồi cho con là Trọng Thủy sang làm tin, xin hòa hảo với nhau. Về sau, An Dương Vương đối xử với Cao Thông không được hậu, Cao Thông bỏ đi. An Dương Vương có người con gái là Mỵ Châu, thấy Trọng Thủy đẹp trai, liền phải lòng. Về sau, Trọng Thủy dụ dỗ Mỵ Châu đòi xem nỏ thần, Mỵ Châu đem cho xem. Trọng Thủy nhân đấy bẻ hỏng cái lẫy nỏ, rồi lập tức sai người ruổi về báo tin cho Triệu ĐàTriệu Đà lại đem quân sang đánh úp. Khi quân Triệu kéo đến, An Dương Vương đem nỏ ra bắn như trước, nhưng nỏ hỏng rồi! Quân Thục chạy tan tác. Triệu Đà phá được Thục. Ngày nay, mẫu truyện lịch sử này đã được liệt vào một trong những dạng chiến tranh gián điệp rất sớm của lịch sử Việt Nam.

      bởi kairon (minecraft) 24/03/2019
    Like (1) Báo cáo sai phạm
  • Đại Việt Sử ký Toàn thư chép: Hùng Vương có người con gái nhan sắc tuyệt vời tên gọi là Mỵ Nương. Vua nước Thục nghe tin, sai sứ cầu hôn. Vua Hùng muốn gả nhưng Lạc Hầu can rằng: Thục muốn lấy nước ta, chỉ mượn tiếng cầu hôn đó thôi. Không lấy được Mỵ Nương, Thục Vương căm giận, dặn lại con cháu phải diệt Văn Lang mà chiếm lấy nước. Đời cháu Thục Vương là Thục Phán mấy lần đem quân sang đánh nước Văn Lang. Nhưng Hùng Vương có tướng sĩ giỏi, đã đánh bại quân Thục. Hùng Vương nói: Ta có sức thần, nước Thục không sợ hay sao? Bèn chỉ say sưa yến tiệc không lo việc binh bị. Bởi thế, khi quân Thục lại kéo sang đánh nước Văn Langvua Hùng còn trong cơn say. Quân Thục đến gần, vua Hùng trở tay không kịp phải bỏ chạy rồi nhảy xuống sông tự tử. Tướng sĩ đầu hàng. Thế là nước Văn Lang mất. Giáp Thìn, năm thứ 1 [257 TCN], vua đã thôn tính được nước Văn Lang, đổi quốc hiệu là Âu Lạc[6].

    Trong tư liệu truyền miệng người Tày và Lĩnh Nam chích quái có đề cập đến, cha của Thục Phán là Thục Chế làm vua nước Nam Cương được 60 năm thì qua đời, khiến cho gia đình họ Thục rơi vào cảnh chia rẽ tranh giành quyền lực. Khi ấy Thục Phán mới tròn 10 tuổi, cháu của Thục Chế là Thục Mô lợi dụng và đưa Thục Phán lên ngôi. Thục Mô nhiếp chính lộng quyền, nhiều lần muốn giết Phán đoạt ngôi vua, khiến chư hầu bất mãn. Nhưng Thục Phán thì vẫn luôn nhẫn nại mong hàn gắn lại gia tộc họ Thục vốn đã bị chia rẽ từ khi cha mình mất. Chín chúa Mường (bao gồm ba Nùng chủ, hai Dao chủ, một Mán chủ, một Sán chủ, một Tày chủ, một Miêu chủ) không phục kéo quân về bắt Thục Phán đòi chia nhỏ đất ra cho các chúa cai quản và đòi nhường ngôi "vua" (sử thi người Tàygọi giai đoạn lịch sử đó là "Cẩu chủa cheng vùa", chính là truyền thuyết Chín Chúa tranh Vua nổi tiếng trong văn hóa tín ngưỡng đông bắc Việt Nam và các dân tộc thiểu số vùng nam Quảng Tây). Thục Phán tuy ít tuổi, nhưng từ bé đã thể hiện phẩm chất thông minh hơn người, bày kế cho Thục Mô và chín chúa Mường đua sức, đấu đá lẫn nhau. Còn họ Thục thì giải quyết tranh chấp nội bộ và củng cố lực lượng ở kinh đô Thành Bản Phủ, đến khi các phe cánh đấu đá đến sức cùng lực kiệt, Thục Phán mới thâu tóm toàn cục khiến chín chúa Mường quy phục ông. Từ đó, nước Nam Cương dưới tay Thục Phán trở nên cường thịnh. Từ năm 263 TCN đến năm 257 TCN, Thục Phán đem quân thôn tính nhiều lãnh thổ của các bộ tộc Bách Việt trên phương Bắc và cả Văn Lang ở phương Nam.

    Thục Phán lúc đầu chỉ tính mượn sức Văn Lang cùng chống giặc phương Bắc theo con đường hôn nhân, nhưng bị Hùng Vươngbuông lời miệt thị. Thục Phán nổi giận muốn đem quân xuống Nam nhưng lại lo sợ nhà Tần và các bộ tộc Bách Việt ở mặt bắc đánh úp Thành Bản Phủ. Nên ông nghe theo kế của Thục Mô, sai người đưa nhiều châu báu cho chủ tướng phía Nhà Tần là Bình Nam tướng quân Đồ Thư thể hiện sự thần phục, kích Đồ Thư đánh Người Lê ở Tây Âu, khi ấy Đồ Thư cũng đang bận dẹp loạn ở vùng Phiên Ngung nên chấp nhận đề nghị. Sau khi tạm yên mặt Bắc, ông ra lệnh cho hai vị chúa Mường đứng đầu hai bộ tộc là Miêu chủvà Dao chủ đem quân của tiến về biên giới các bộ tộc Nam Chiếu cổ (phía Tây Hà Giang), còn mình đem quân đánh thẳng xuống Phong Châu. Khi ấy Văn Lang đã suy tàn, Hùng Vương đời 18 tính háo sắc, thường gian dâm với vợ các tù trưởng dưới trướng mình, tính tình lại độc ác bạo ngược khiến quân dân bất mãn tột độ. Quân đội tinh nhuệ của Thành Bản Phủ chẳng tốn nhiều hơi sức đã hạ được Văn Lang. Chỉ trong vòng một tuần, Thục Phán đã giết được Nguyễn Tuấn (phò mã của Văn Lang), vây hãm Phong Châu khiến Hùng Vương phải sợ hãi tự tử. Cùng lúc, các tù trưởng Nam Chiếu ở phía tây nghe tin Tày chủ Thục Phán bỏ kinh đô xuống Nam, cùng hợp lực đông tiến thì bị phục binh của Miêu chủ và Dao chủ phục sẵn ở Xín Mần đánh cho thua liểng xiểng phải rút chạy về tận địa phận Lào Cai bây giờ.

    Thục Phán sau khi lấy được Văn Lang nhanh chóng ổn định quân đội, treo bảng cầu hiền, những tù trưởng thuộc Văn Lang cũ vẫn giữ nguyên chức vụ, ông lấy hiệu là An Dương Vương, đổi tên nước thành Âu Lạc, bộ máy nhà nước thời Âu Lạc không có nhiều thay đổi so với bộ máy nhà nước thời Văn Lang. Đứng đầu trong bộ máy hành chính ở trung ương vẫn là Vua và Lạc Hầu - Lạc Tướng. Đứng đầu các bộ vẫn là Lạc Tướng. Đứng đầu các chiềngchạ vẫn là Bồ chính. Tuy nhiên, ở thời An Dương Vương quyền hành của nhà nước cao hơn và chặt chẽ hơn. Vua có quyền thế hơn trong việc cai trị đất nước.

    Khi ấy lãnh thổ của Nam Cương đã trở nên cực thịnh, toàn bộ vùng đông bắc Việt Nam và một nửa Quảng Đông - Quảng Tây đều chịu sự cai quản của người Tày.

    Chống quân Tần[sửa | sửa mã nguồn]

    Bài chi tiết: Chiến tranh Tần-Việt

    Cùng thời kỳ này, bên Trung HoaTần Thủy Hoàng sáp nhập sáu nước sau nhiều năm hỗn chiến thời Chiến Quốc. Ông tiếp tục tham vọng xâm chiếm Bách Việt, vùng đất đai của các bộ tộc Việt ở phía nam Trung Quốc và bắc Việt Nam ngày nay. Đạo quân xâm lược nhà Tần do Đồ Thư chỉ huy đã đánh chiếm nhiều vùng đất của Bách Việt, nhập vào lãnh thổ Trung Hoa. Khi vào lãnh thổ phía Đông Bắc nước Âu Lạc, quân Tần gặp phải cuộc kháng chiến trường kì của người Việt do Thục Phán chỉ huy.

    Bản đồ các khu vực lẻ tẻ do nhà Tần chiếm được của các nhóm tộc Bách Việt ở phía Nam sông Dương Tử sau năm 210 TCN.

    Theo tư liệu dân gian, trong các câu hát sli, lượn của người dân tộc thiểu số Đông Bắc: Thục Phán đã đoán trước được tương lai không xa sẽ có một cuộc chiến tranh khốc liệt với người Hoa Hạ ở phương Bắc. Khoảng thời gian ông thu phục chín chúa Mường, kết thúc loạn Cẩu chủa cheng vùa lúc còn rất trẻ, lúc ông thuyết phục các lãnh chúa làm theo kế hoạch của mình, có tiên đoán tương lai đến hiểm họa chiến tranh với người phương Bắc. Trong các làn điệu hát thơ Phong Slư của người dân tộc Tày hay các bài hát Sli Slình làng (Nùng Cháo) Sli Giang (Nùng Hà Giang) Sli Phàn slình (Nùng phàn slình) của Người Nùng có kể rất rõ đoạn hội thoại của ông với chín chúa Mường, ông nói:

    "Khi phương Bắc thống nhất trở lại,
    họ nhất định sẽ tìm cách xuống nuốt toàn bộ Bách Việt,
    giang sơn Nam Cương cũng sẽ khó thoát.
    Hãy cùng ta xuôi ngựa xuống phương Nam,
    nơi quanh năm ngập nước, ruộng trải đến tận chân trời
    lương thực ở nơi đó, quân ta dùng vài năm cũng không hết
    vua Văn Lang kiêu ngạo, kẻ dưới quyền căm ghét
    Cùng ta đánh thật nhanh để thu vụ lúa đầu..."

      bởi Trần Hữu Hoàng 24/07/2019
    Like (0) Báo cáo sai phạm

Nếu bạn hỏi, bạn chỉ thu về một câu trả lời.
Nhưng khi bạn suy nghĩ trả lời, bạn sẽ thu về gấp bội!

Lưu ý: Các trường hợp cố tình spam câu trả lời hoặc bị báo xấu trên 5 lần sẽ bị khóa tài khoản

Gửi câu trả lời Hủy
 
NONE

Các câu hỏi mới

AANETWORK
 

 

YOMEDIA
AANETWORK
OFF