Hoài Thanh được biết đến là một nhà phê bình, nghiên cứu văn học xuất sắc tài hoa. Chính vì vậy, nội dung bài giảng Một thời đại trong thi ca thuộc sách Cánh diều do HOC247 biên soạn và tổng hợp dưới đây sẽ giúp các em hiểu được quan niệm của Hoài Thanh về phong trào thơ mới trong ý nghĩa văn chương, xã hội. Chúc các em có nhiều tiết học bổ ích!
Tóm tắt bài
1.1. Tìm hiểu chung
1.1.1. Tác giả
- Hoài Thanh (1909 – 1982), tên khai sinh Nguyễn Đức Nguyên.
- Quê quán: Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Ông xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo.
- Các tác phẩm chính: Văn chương và hành động (1936), Thi nhân Việt Nam (1942), Nói chuyện thơ kháng chiến (1950)…
- Phong cách phê bình:
+ Là nhà lý luận phê bình xuất sắc của nền Văn học Việt Nam hiện đại: “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”.
+ Cách phê bình của ông nhẹ nhàng, tinh tế gần gũi và giàu cảm xúc, hình ảnh. Có sự kết hợp giữa tính khoa học với tính văn chương logic, độc đáo.
- Năm 2000 ông được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh (1909 – 1982)
1.1.2. Tác phẩm
a. Thể loại: Tác phẩm thuộc thể loại văn bản nghị luận.
b. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:
- Tiểu luận mở đầu "Thi nhân Việt Nam".
=> Sự khám phá và đánh giá đầu tiên; là công trình tổng kết có giá trị về phong trào thơ mới.
Thi nhân Việt Nam (Hoài Thanh - Hoài Chân)
c. Bố cục:
- Mở bài: Khẳng định sự phong phú và sự chiến thắng của thơ mới đối với thơ cũ
- Thân bài: Xác định tinh thần thơ mới là ở chữ "tôi" cá nhân, cái "tôi" nhiều bi kịch.
- Kết bài: Cách giải tỏa bi kịch của các nhà thơ lãng mạn.
d. Tóm tắt tác phẩm:
Mở đầu văn bản Một thời đại trong thi ca, tác giả đề cập đến cái khó khăn trên con đường đi tìm tinh thần trong thơ mới. Tác giả đưa ra nguyên tắc giúp chúng ta nhận diện thơ Mới và thơ cũ một cách khái quát nhất và nhấn mạnh cốt lõi làm nên tinh thần thơ mới đó chính là cái "tôi" cá nhân. Hoài Thanh đề cập đến sự đối lập giữa cái "tôi" trong thơ Mới với cái "ta" trong thơ cũ để làm nổi bật lên bi kịch tinh thần của cái "tôi" trong thơ Mới. Cuối cùng tác giả chỉ ra sự vận động của cái "tôi" và việc giải quyết bi kịch thời đại của nó là gửi cả vào tình yêu tiếng Việt.
1.2. Đọc hiểu văn bản
1.2.1. Nhan đề " Một thời đại trong thi ca"
Nhan đề đã thể hiện nhận định khái quát của tác giả về phong trào Thơ mới – một giai đoạn phát triển rực rỡ của thi ca với sự xuất hiện của nhiều nhà thơ nổi tiếng, nhiều phong cách sáng tác, nhiều nội dung phong phú. Đây xứng đáng là một thời đại trong thi ca.
1.2.2. Phần 1:
- Luận đề: Khẳng định sự phong phú và sự chiến thắng của thơ mới đối với thơ cũ.
- Dẫn chứng: Trong phần (1), để thuyết phục người đọc về sự chiến thắng của thơ mới đối với thơ cũ, tác giả đã lập luận bằng thao tác so sánh: đầu tiên, tác giả đưa ra tiêu chí so sánh (thời đại với thời đại), rồi chứng minh sự vượt trội của phong trào Thơ mới so với thơ cũ bằng việc dẫn ra bằng chứng về sự phong phú và đặc sắc của nhiều cá tính sáng tạo.
1.2.3. Phần 2
a. Căn cứ xác định tinh thần thơ mới:
* Khó khăn:
- Tác giả trích dẫn chứng của hai nhà thơ cũ và mới tiêu biểu rồi đi đến chỉ ra sự khó khăn trong việc xác định thơ mới và thơ cũ.
- Ranh giới giữa thơ mới thơ cũ không phải lúc nào cũng rõ ràng, dễ nhận ra: “hôm nay phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ”.
- Cả thơ mới và thơ cũ đều có những cái hay, cái dở: Khốn nỗi cái tầm thường cái lố lăng chẳng phải của riêng thời nào.
=> Bằng những câu văn giả định, với một giọng điệu thân mật, gần gũi, thiết tha, bức xúc mà chân thành, tác giả đã nêu lên được cái khó khăn trong việc xác định thơ mới mà cũng là cái khao khát của kẻ yêu văn quyết tìm cho được tinh thần thơ mới.
* Căn cứ để xác định tinh thần thơ mới:
+ Căn cứ vào cái tiêu biểu: “so sánh bài hay với bài hay vậy” (cái dở khong đủ tư cách để đại diện).
+ Căn cứ vào cái “đại thể”, không nhìn vào cái tiểu tiết: “không nhìn vào cái lố lăng, tầm thường”.
=> Tác giả sử dụng nghệ thuật lập luận quy nạp, theo logic chặt chẽ (đưa ra dẫn chứng và giả định- đi đến kết luận thuyết phục).
b. Tinh thần thơ mới:
- Nhận định táo bạo về thơ cũ và thơ mới:
+ thơ cũ chính là “cái ta” (ngày trước là thời chữ ta)
+ thơ mới chính là “cái tôi” (bây giờ là thời chữ tôi)
- Tinh thần thơ mới: Chữ tôi. Chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó.
- Cách hiểu về chữ tôi: So sánh:
- Nhận xét:
+ Thơ cũ là tiếng nói của cái ta, gắn liền với đoàn thể, cộng đồng, dân tộc. Thơ mới là tiếng nói của cái Tôi với nghĩa tuyệt đối, gắn liền với cái riêng, cái cá nhân, cá thể.
+ Thủ pháp nghệ thuật so sánh, đối chiếu được kết hợp chặt chẽ với cái nhìn biện chứng, lịch sử, nhiều chiều:
- Đặt cái tôi trong mối quan hệ đối chiếu với cái ta.
- Đặt cái tôi trong mối quan hệ với thời đại, với tâm lí người thanh niên đương thời để phân tích, đánh giá.
=> Chính vì đề cao giải phóng cái tôi nên thơ mới có sự xuất hiện của nhiều phong cách nghệ thuật riêng biệt, làm nên sự phong phú của cả nền thơ.
c. Hành trình vận động của cái tôi thơ mới:
- Ban đầu: Nó thực bỡ ngỡ, như lạc loài nơi đất khách =>khó chịu, ác cảm
- Sau này: Nó mất dần cái vẻ bỡ ngỡ. Nó được vô số người quen. Người ta còn thấy nó đáng thương. Mà thật nó tội nghiệp quá!=> quen dần và thương cảm.
=> Đặt cái tôi trong cái nhìn lịch sử để xem xét. Giọng điệu giàu cảm xúc.
1.2.4. Phần 3: Bi kịch cái tôi thơ mới
- Cái tôi đáng thương và đáng tội nghiệp vì:
+ Mất cốt cách hiên ngang thưở trước.
+ Thiếu một lòng tin đầy đủ vào thực tại, tìm cách thoát li thực tại nhưng lại rơi vào bi kịch: “càng đi sâu càng lạnh”.
=> Cách trình bày Có tính khái quát cao (về sự bế tắc của cái tôi thơ mới và phong cách riêng của từng nhà văn), lập luận logic, chặt chẽ nhưng cách diễn đạt lại giàu cảm xúc và có tính hình tượng.
- Nguyên nhân: Hoàn cảnh lịch sử:
+ Bi kịch của người thanh niên thời ấy: Cô đơn, buồn chán, tìm cách thoát li thực tại vì thiếu lòng tin vào thực tại nhưng cuối cùng vẫn rơi vào bế tắc. (Đây cũng chính là đặc trưng cơ bản của thơ mới). Đó là nỗi niềm của người thanh niên mất nước, không có điểm tựa, niềm tin trong cuộc đời.
- Con đường giải quyết bi kịch:
+ Họ Gửi cả vào tiếng việt.
+ Bởi vì: Tiếng Việt là văn hóa, tiếng nói của dân tộc Việt Nam: là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ đã qua. Họ tin vào các giá trị vĩnh hằng trong cội nguồn dân tộc: thể thơ, ngôn ngữ (vì họ cần tìm về dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai).
=> Nhận xét: Các nhà thơ mới, thế hệ thanh niên thời ấy đã thể hiện tình yêu quê hương đất nước thầm kín. Tất cả tình yêu thương ấy được họ dồn cả vào tình yêu tiếng Việt. Bởi họ tin rằng: Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn.
1.3. Tổng kết
1.3.1. Về nội dung
Nhận thức tinh tế, sâu sắc về tinh thần thơ mới, động lực thúc đẩy sự phát triển của thi ca Việt Nam hiện đại.
1.3.2. Về nghệ thuật
- Tính khoa học:
+ Cách lập luận chặt chẽ, từ khái quát đến cụ thể, từ xa đến nay, từ xa đến gần. Điều này đã được phản ánh tư duy khoa học, sự am hiểu thấu đáo đối tượng phân tích của tác giả.
+ Luôn gắn những nhận định khái quát với luận cứ cụ thể, đa dạng, có sức thuyết phục; có sự so sánh giữa thơ mới với thơ cũ;
- Tính nghệ thuật: cách dẫn dắt ý theo mạch cảm xúc tinh tế, uyển chuyển và bằng ngôn ngữ hình ảnh, nhịp điệu.
Bài tập minh họa
Văn bản Một thời đại trong thi ca có đoạn:
“Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên,... và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu.”
Đoạn văn trên giúp em có thêm những hiểu biết gì về:
- Đặc điểm ngôn ngữ trong văn bản nghị luận văn học (phê bình văn học) của Hoài Thanh?
- Phong trào Thơ mới lãng mạn 1932 - 1945?
Lời giải chi tiết:
Đoạn văn giúp em hiểu thêm về:
- Đặc điểm ngôn ngữ trong văn bản nghị luận văn học (phê bình văn học) của Hoài Thanh: giàu hình ảnh và chất thơ; câu văn có nhịp điệu, được tạo nên bởi những cấu trúc tương xứng lặp đi lặp lại như một điệp khúc.
- Phong trào Thơ mới 1932 – 1945: là một phong trào thơ ca phong phú về nội dung cảm xúc và đa dạng về cá tính sáng tạo. Đó là một trào lưu văn học với nhiều nhà thơ nổi tiếng.
Lời kết
Học xong bài Một thời đại trong thi ca, các em cần nắm:
- Phân tích được nội dung, mối quan hệ giữa luận để, luận điểm, lí lẽ và dẫn chứng tiêu biểu, độc đáo.
- Nhận biết và phân tích được vai trò của các yếu tố thuyết minh hoặc biểu cảm, miêu tả, tự sự trong văn bản nghị luận.
- Xác định được mục đích, quan điểm của người viết và thể hiện được quan điểm cá nhân về nội dung của văn bản.
Soạn bài Một thời đại trong thi ca - Ngữ văn 11 Tập 2 Cánh Diều
Tác phẩm Một thời đại trong thi ca đã nêu rõ nội dung cốt yếu của tinh thần Thơ mới: Lần đầu tiên chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện trong thi ca đồng thời cũng nói lên sự bế tắc trong hồn người thanh niên lúc bấy giờ. Đoạn trích là phần cuối của bài tiểu luận với lập luận chặt chẽ, tác giả đã thể hiện rõ đặc trưng tinh thần của thơ mới là cái tôi cá nhân phóng khoáng, thể hiện màu sắc riêng đặc trưng. Để nắm được nội dung và ý nghĩa của bài học này, các em có thể tham khảo bài soạn dưới đây:
- Soạn văn đầy đủ Một thời đại trong thi ca
- Soạn văn tóm tắt Một thời đại trong thi ca
Hỏi đáp bài Một thời đại trong thi ca - Ngữ văn 11 Tập 2 Cánh Diều
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn HỌC247 sẽ sớm trả lời cho các em.
Một số bài văn mẫu về văn bản Một thời đại trong thi ca
Qua tác phẩm Một thời đại trong thi ca, tác giả giúp chúng ta hiểu được quan niệm của Hoài Thanh về phong trào thơ mới trong ý nghĩa văn chương, xã hội. Bên cạnh đó thấy những nét đặc sắc trong nghị luận của ông. Để hiểu hơn về bài học này, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
-- Mod Ngữ văn 11 HỌC247