YOMEDIA
NONE

Phân tích khổ 4 trong bài Ông đồ

Phân tích khổ thơ thứ tư trong bài ''Ông Đồ" của Vũ Đình Liên.hihi

Theo dõi Vi phạm
ADSENSE

Trả lời (2)

  • Vũ Đình Liên là một nhà thơ cũ trong phong trào thơ Mới, ông là một nhà thơ khá đặc biệt, người ta thường tìm thấy bút pháp của một nhà thơ, nhà văn qua các tác phẩm thì với ông chỉ có một tác phẩm để đời. “ Ông đồ” là sự xuất hiện không trở lại của một thơ trên thi đàn, và đây là những hình ảnh không hề lặp lại trong văn học:

    Ông đồ vẫn ngồi đấy
    Qua đường không ai hay
    Lá vàng rơi trên giấy
    Ngoài trời mưa bụi bay

    Năm nay đào lại nở
    Không thấy ông đồ xưa
    Những người muôn năm cũ
    Hồn ở đâu bây giờ ?

    Bài thơ “Ông đồ” sáng tác năm 1936, đăng trên báo Tinh hoa. Tác giả Anh Ngọc trong bài viết “Hồn thơ thế kỷ” có nhận định: ấn tượng đầu tiên là bài thơ hoàn toàn mang dáng vẻ tự nhiên, không một dấu vết sắp xếp, bày đặt. Nó giống như một bức tranh, một đoạn phim ghi nhanh mà tác giả bất ngờ chớp được trên đường phố”. Bài thơ cũng như đang kể một câu chuyện về văn hóa xuất hiện rồi mất đi khi lòng yêu mến của con người thay đổi. Văn hóa phụ thuộc vào thị hiếu, khi nó không còn phù hợp thì sẽ bị đoà thải dần dần rồi cuối cùng chỉ còn lại chút kí ức, hay được ghi lại bởi trái tim nghệ sĩ như Vũ Đình Liên. Nếu như phần đầu bài thơ là sự phấn khởi, vui vẻ khi thấy: “Hoa tay thảo những nét/ Như phượng múa rồng bay”, để rồi không khí tấp nập hiện lên trên trang giấy của nhà thơ: “Bao nhiêu người thuê viết/ tấm tắc ngợi khen tài”. Một cao trào kết thúc bằng tâm thế trùng xuống hay lòng yêu văn hóa viết chữ Nho không còn: “giấy đỏ buồn không thấm/ Mực đọng trong nghiên sầu”. Nhà thơ đã dành những tình cảm xuất phát từ chính trái tim ông để tiếc thương cho một kiếp người, một thời đại, một nền văn hóa đã in dấu mấy nghìn năm đang chết từ từ rồi đến lúc không cứu vãn được nữa.

    Hai khổ thơ cuối nhẹ nhàng nhưng lại chất chứa nỗi xót xa cho con người đầy tài năng, một thời gian dài đã đem lại văn hóa, ghi dấu ấn của văn hóa bằng chữ viết, là niềm vui của mọi người khi có được nét chữ của ông vào ngày Tết. Nhưng bây giờ con người ấy lại thầm lặng vô cùng: “Ông đồ vẫn ngồi đấy/ Qua đường không ai hay”. “Vẫn” là một từ dùng để chỉ sự lặp lại không thay đổi, một con người gắn bó với nền văn hóa, muốn bảo tồn văn hóa, nhưng hiện tại ông đang bị đẩy đến sự cô đơn “không ai hay”, con người đã hờ hững thực sự. đã không còn để tâm đến người từng mang lại cho họ những trầm trồ, ngợi ca, sự thán phục nữa. Ý thích của con người thực sự đã thay đổi theo thời cuộc. Con người mới không còn quyến luyến chữ nghĩa kia. Ông đồ thực sự đã rơi vào tình cảnh của một nghệ sĩ không còn duyên với công chúng, giống như một cô gái đẹp không còn duyên nữa: Còn duyên kẻ đón người đưa/ Hết duyên đi sớm về trưa một mình”.

    Hình ảnh “Lá vàng rơi trên giấy/ Ngoài đường mưa bụi bay” là những hình ảnh cuối cùng vương vấn cho nghề viết chữ của ông đồ, giấy, mực hiện tại không còn chút liên hệ nào với nhau, tất cả đang im lìm, mặc kệ sự đưa đẩy của không gian, thời cuộc, mặc kệ sự cô đơn, lạnh lẽo nơi ông đồ. “Mưa bụi bay” giống như hình ảnh của một con người đang cố bám lấy xã hội hiện đại nhưng rơi vào mỏng manh, chới với.

    Khổ cuối bài thơ là sự lặp lại hình ảnh: ông đồ và hoa đào, nhưng hình ảnh ông đồ đã mở rộng theo không gian và trở nên khó nắm bắt:

    Năm nay đào lại nở
    Không thấy ông đồ xưa
    Những người muôn năm cũ
    Hồn ở đâu bây giờ ?

    Đến nay đào lại nở như quy luật tàn lụi của nó, nhưng khác với đào nở vào Tết năm xưa, không còn ông đồ nào làm nên cái dáng vẻ ngày xuân ấy nữa, sự cô đơn đến thê thảm của ông cũng không hề xuất hiện, sự đào thải của con người đã vô tình đào thải một con người, một thời đại, một nền văn hóa. Từ “Không thấy” xuất hiện nhẹ nhàng nhưng lại mang sức nặng của sự mất mát. Con người ấy không xuất hiện đồng thời những vẻ đẹp văn hóa mà ông mang lại đã hoàn toàn bị mất đi. Tất cả chỉ còn lại bằng một câu hỏi xuất phát từ chính nỗi cảm, nỗi tiếc, nỗi xót xa, từ đáy lòng của một nghệ sĩ đã theo dõi sự đổi thay ấy: Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ? Câu hỏi biểu hiện sự níu kéo, chỉ có thị hiếu mới có thể níu kéo lại được văn hóa đẹp đẽ ấy, nhưng không tìm ra được sự trân trọng của họ trong thời điểm hiện tại, đồng thời tác giả cũng rơi vào trạng thái cô đơn, cô đơn trong nuối tiếc, cô đơn trong việc tìm lại văn hóa xưa…

    Bài thơ kết thúc trong câu hỏi, trong sự hoài nghi, sự dằn vặt nơi tác giả. Tính chất đa thanh trong hai khổ cuối khiến lời thơ dứt nhưng dư ba của nó còn ngập tràn. Ông đồ cũng như văn hóa mà ông mang lại thực sự đã không còn nhưng Vũ Đình Liên là người ghi lại thời điểm ấy. Ông đồ viết lên trang giấy nét tinh hoa thì Vũ Đình Liên viết lên trang giấy những tình cảm của một nghệ sĩ về một nền văn hóa lụi tàn để nhắc nhở người ta nhớ đến, và phải chăng, đó cũng là một sự níu kéo cho một nền văn hóa?

      bởi Nguyễn Linh 12/11/2018
    Like (0) Báo cáo sai phạm
  • YOMEDIA

    Video HD đặt và trả lời câu hỏi - Tích lũy điểm thưởng

  • Nếu thơ Xuân Diệu có giọng điệu say đắm, rạo rực, thơ Hàn Mặc Tử có chút điên loạn, thơ Huy Cận có nỗi buồn ảo não thì thơ Vũ Đình Liên lại mang một giọng điệu hoài cổ. Mỗi người nghệ sĩ có phong cách thơ khác nhau, đây là nét riêng biệt để họ được phân biệt với các tác giả khác và cũng là ấn tượng riêng để bạn đọc nhớ đến họ. Tuy sáng tác không nhiều nhưng Vũ Đình Liên đã để lại cho văn học Việt Nam những tác phẩm giá trị, tiêu biểu là bài thơ “Ông đồ”.
    Bài thơ được sáng tác năm 1936 và được đăng trên tạp chí “Tinh hoa”. Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh nền Hán học đang mất dần vị thế của mình do sự xâm nhập của nền văn hóa phương Tây. Đây cũng là lúc các ông đồ không còn được  trọng vọng do thời thế đã thay đổi. Nhan đề bài thơ gợi nhớ một nét đẹp đã lùi sâu vào dĩ vãng cùng sự tiếc thương vô cùng.
    Nhắc đến ông đồ là nhắc đến những thầy dạy chữ Nho ngày xưa, mỗi dịp Tết đến xuân về ông thường xuất hiện bên đường phố để viết những câu đối đỏ:

     “Mỗi năm hoa đào nở
    Lại thấy ông đồ già
    Bày mực tàu giấy đỏ
    Bên phố đông người qua”.

    Hình ảnh này đã trở nên quen thuộc bởi Tết nào ông đồ già cũng xuất hiện cùng với mực tàu và giấy đỏ. Đó là thời đắc ý, thời vàng son của ông. Như một sự tuần hoàn của chu kì thời gian, mỗi dịp chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, khi những cánh đào hồng tươi khoe sắc thắm thì đó cũng là lúc ông đồ xuất hiện. Không gian làm việc của ông là bên phố. Ta hãy hình dung dưới những bông hoa đào cùng tiết trời se lạnh có một ông đồ già đang vẽ những nét chữ điêu luyện và sự nhộn nhịp của bước chân người qua lại tạo nên một bức tranh thật tươi vui. Từ “mỗi”, “lại” đã phần nào thể hiện nhịp điệu đều đặn ấy. Hoa đào và ông đồ đã song hành, sóng đôi cùng nhau để tôn thêm vẻ đẹp của ngày Tết. Màu hồng của hoa đào, màu đen của thỏi mực, màu đỏ của giấy đã làm bức tranh thật sinh động.

    Tài năng viết chữ của ông đồ được mọi người ngợi khen, thán phục:

    “Bao nhiêu người thuê viết
    Tấm tắc ngợi khen tài
    Hoa tay thảo những nét
    Như phượng múa rồng bay”.

    Rất nhiều người thuê ông viết chữ, họ không chỉ quý trọng những nét chữ của ông mà họ còn dành cho ông một lòng kính trọng. Ông đã phô diễn tài năng của mình qua các câu đối đỏ, qua những nét chữ rồng bay phượng múa. Phải là một người am hiểu về Hán học, chữ Nho thì ông đồ mới có thể viết những nét chữ tài hoa đến như vậy. Phép tu từ so sánh “như phượng múa rồng bay” đã thể hiện được lòng ngưỡng mộ, sự tôn trọng của Vũ Đình Liên cũng như của nhân dân ta dành cho ông đồ. Đây cũng là sự trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Chơi chữ là một thú vui thể hiện cốt cách thanh cao của người thường thức nó. Đồng thời, người viết chữ cũng được xem như một nghệ sĩ tài ba bởi nét chữ thể hiện được cái tâm, cái chí của người sáng tạo. Không những viết đẹp mà ông còn viết nhanh, điều này thật đáng khâm phục. Những nét chữ uốn lượn một cách tài tình dưới đôi tay của một người có học thức khiến ai cũng muốn thuê ông viết cho câu đối đỏ. Có thể nói, thời đắc ý ông đồ vô cùng đông khách, người ta đến với ông vì sự thán phục những nét chữ phóng khoáng. Cả người viết chữ và người chơi chữ như có mối đồng cảm sâu sắc vì họ đều là người biết yêu và thường thức cái đẹp.

    Nhưng khi thời thế thay đổi cũng là lúc ông đồ không còn được trọng vọng, ngưỡng mộ:

    “Nhưng mỗi năm mỗi vắng
    Người thuê viết nay đâu?
    Giấy đỏ buồn không thắm
    Mực đọng trong nghiên sầu…”

    Trước đây, người thuê ông đồ viết chữ nhiều là thế nhưng nay họ đã đi đâu hết? Họ vẫn ở đó, vẫn xuất hiện trong cuộc sống thường nhật  nhưng sự xâm nhập của văn hóa phương Tây đã làm những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc bị mai một. Tác giả đã miêu tả một khung cảnh quạnh hiu,vắng vẻ đến thê lương. Thời gian đã cuốn trôi đi những gì tươi đẹp của quá khứ khiến con người không khỏi xót xa, tiếc nuối. Câu hỏi tu từ: “Người thuê viết nay đâu?” vang lên với bao đau đớn. Thực tại thú chơi chữ đã không còn được ưa chuộng, người chơi chữ, mua chữ cũng ít dần đi theo năm tháng. Nỗi buồn đã nhuốm sang cả cảnh vật, sang cả những gì vô tri vô giác. Giấy đỏ cũng biết buồn nên đã chẳng còn thắm, màu giấy đã phôi phai đi rồi nhạt dần, thỏi mực đã mài nhưng không được dùng đến nay cũng đọng lại trong nghiên. Biện pháp nhân hóa đã thể hiện tâm trạng u uất của ông đồ và cũng là sự xót xa, thương cảm của nhà thơ.

    Nền Hán học đã suy tàn nhưng với mong muốn lưu giữ lại những giá trị văn hóa mà ông đồ già vẫn kiên trì ngồi bên hè phố như bao năm trước:
     
     “Ông đồ vẫn ngồi đấy
    Qua đường không ai hay
    Lá vàng rơi trên giấy
    Ngoài giời mưa bụi bay”

    Nhưng sự xuất hiện của ông không được mọi người chú ý, quan tâm như thời vàng son. Bóng dáng ông cứ lặng lẽ qua đường, lặng lẽ bên phố mà không một ai hay biết. Hình ảnh ông đồ đã rơi vào quên lãng. Hình ảnh ấy chỉ là “cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn” (Vũ Đình Liên). Sự tàn phai, úa rụng được thể hiện qua hình ảnh chiếc lá vàng cùng không khí lạnh lẽo của làn mưa bụi lất phất đã bao trùm lên toàn bộ khung cảnh khiến cảnh vật nhuốm màu sắc tâm trạng. Mọi người đã gạt ông đồ ra khỏi trí nhớ và kí ức, họ coi ông như người vô hình trong xã hội đương thời.

    Vũ Đình Liên đã bộc lộ nỗi xót xa, niềm hoài cổ của mình qua khổ thơ cuối:

    “Năm nay hoa đào nở
    Không thấy ông đồ xưa
    Những người muôn năm cũ
    Hồn ở đâu bây giờ?”

    Ông đồ đã thực sự vắng bóng, đào vẫn khoe sắc hương, cảnh vật vẫn tuần hoàn theo quy luật tự nhiên nhưng ta không còn thấy sự xuất hiện của ông đồ nữa. Sự vắng bóng của ông khiến chúng ta không khỏi thương tiếc cho một giá trị tinh thần đã không còn tồn tại. Những con người trước đây từng thuê ông đồ viết câu đối, những người từng tôn trọng ông đồ nay đã hoàn toàn thay đổi. Họ bận thích nghi với nền văn hóa mới từ Tây phương nên tâm hồn họ cũng không còn chỗ cho những tinh túy của văn hóa truyền thống. Câu hỏi tu từ vang lên ở cuối bài đọng lại bao sự cảm thương, hối tiếc cho những gì đã mất.

    Bằng việc sử dụng hình ảnh hoa đào, ông đồ ở đầu và cuối bài thơ, tác giả đã khắc họa thành công hình ảnh trái ngược của ông đồ ở thời kì vàng son và ông đồ khi thất thế. Thể thơ năm chữ đã giúp nhà thơ bày tỏ cảm xúc một cách dễ dàng. “Ông đồ” là sự hoài niệm về những giá trị xưa cũ, bộc lộ niềm cảm thương sâu sắc của tác giả Vũ Đình Liên.

      bởi Lê Trần Khả Hân 20/06/2019
    Like (0) Báo cáo sai phạm

Nếu bạn hỏi, bạn chỉ thu về một câu trả lời.
Nhưng khi bạn suy nghĩ trả lời, bạn sẽ thu về gấp bội!

Lưu ý: Các trường hợp cố tình spam câu trả lời hoặc bị báo xấu trên 5 lần sẽ bị khóa tài khoản

Gửi câu trả lời Hủy
 
NONE

Các câu hỏi mới

AANETWORK
 

 

YOMEDIA
AANETWORK
OFF