YOMEDIA
NONE

Chỉ ra những nội dung yêu nước trong Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Nước Đại Việt ta

Từ ba áng thơ văn nổi tiếng ''Nam quốc sơn hà,Hịch tướng sĩ,Nước Đại Việt ta''chỉ ra những nội dung yêu nước trong giai đoạn lịch sử này.

GIÚP MÌNH VS MÌNH THANKS NHÌU

Theo dõi Vi phạm
ADSENSE

Trả lời (2)

  •   “Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh ”, đó là một câu trích trong bài báo Thử lửa của văn hào I-li-a Ê-ren-bua. Bài báo được viết vào năm 1942, trùng hợp thay, đó cũng là khoảng thời gian rất khó khăn đối với dân tộc Việt Nam ta khi mà Việt Minh vừa mới được thành lập và tình hình đất nước thì vô cùng nguy nan. Nếu chiến tranh đã khiến mỗi công dân Xô viết nhận ra vẻ thanh tú của quê hương thì vận mệnh Tổ quốc đã khơi dậy lòng yêu nước trong trái tim mỗi con người Việt Nam. Khi đất nước đang đứng bên bờ vực của sự suy vong, cái tên “Việt Nam” đang bị đe dọa xoá khỏi bản đồ thế giới thì trong lòng mỗi con dân nước Việt vẫn rạo rực tình yêu, lòng tự hào dân tộc, ý chí khẳng định và đấu tranh vì chủ quyền vẫn hừng hực trong trái tim nồng nàn yêu nước. Phải chăng đó chính là biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước? Tinh thần yêu nước ấy như một mạch ngầm chảy suốt tiến trình lịch sử Việt Nam. Đặc biệt, nó được thể hiện một cách sâu sắc trong các tác phẩm văn chương. Trong đó, ta không thể không nhắc tới ba áng văn thơ Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ  Nước Đại Việt ta.

          Chủ nghĩa yêu nước, hay lòng yêu nước, ngoài “là lòng yêu những vật tầm thường nhất”, như I-li-a Ê-ren-bua đã viết còn là niềm tự hào dân tộc. Tự hào vì Việt Nam ta có những trang sử vàng chống giặc ngoại xâm, tự hào vì nền văn hoá truyền thống đặc sắc mà tổ tiên bao đời xây dựng, tự hào vì chính lòng tự hào dân tộc của ông cha ta. Trong Nam quốc sơn hà, tác giả, tương truyền là vị tướng sĩ Lí Thường Kiệt, có viết “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”. “Đế vương” là danh từ để chỉ vua của một nước lớn trong khi đó Đại Việt ta thời bấy giờ chỉ là một nước nhỏ, chư hầu, so với các bậc đế quốc khác như Trung Quốc thì quả là không sánh bằng. Nhưng việc tác giả dùng danh từ “đế” để chỉ vua nước Nam cho thấy Lí Thường Kiệt luôn mang trong mình lòng tự hào dân tộc. Đối với ông, tuy Đại Việt chỉ là một nước chư hầu song vua ta không vì thế mà thua kém, hèn thấp hơn vua Trung Quốc. Lí Thường Kiệt chẳng những không tự ti vì nước ta nghèo lại nhỏ mà ngược lại, ông rất tự hào vì vua ta cũng yêu nước thương dân. Không chỉ Lí Thường Kiệt mà Nguyễn Trãi, vị Danh nhân văn hoá thế giới đầu tiên của Việt Nam cũng đã bày tỏ lòng tự hào của mình trong bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai – Đại cáo bình Ngô: “Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Bài cáo này ra đời vào khoảng năm 1428, đó là quãng thời gian sau thắng lợi giặc Minh, làm tan rã 15 vạn binh của chúng. Khi ấy, toàn dân ta, từ trẻ nhỏ tới cụ già, từ nhà nông tới thương gia, từ quân tới tướng, từ dân tới vua đều tràn trề lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc. Và Nguyễn Trãi đã đem lòng tự hào ấy vào trong bài cáo của mình. Dù là đất nước vừa vực dậy từ chốn lầm than, dù là nền văn hoá dân tộc vừa thoát khỏi hiểm hoạ bị suy tàn, ông vẫn tự hào xưng rằng “nền văn hoá lâu đời”. Ông không nghĩ vì Đại Việt nhỏ bé hơn các đế quốc khác nên văn hoá cũng nghèo nàn. Ngược lại, ông tự hào vì tuy Đại Việt là chư hầu nhỏ bé nhưng cũng có nền văn hiến như các nước phương Bắc lớn hơn. Trong phần tiếp theo, ông có viết “Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập – Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”. Tác giả đã đưa ra những hình ảnh tương đương, một bên là “Triệu, Đinh, Lí, Trần”, bên kia là “Hán, Đường, Tống, Nguyên”. Đặt các triều đại ở vị trí song song, Nguyễn Trãi đã khẳng định sự to lớn, hùng mạnh của dân tộc ta. Nhà thơ tự hào, kiêu hãnh vì đất nước mình sánh ngang với các cường quốc lớn mạnh. Phương Bắc có bao nhiêu triều đại thì nước ta cũng có bấy nhiêu triều đại. Trung Hoa lớn mạnh thì Đại Việt cũng hưng thịnh. Vì sao Đại Việt ta tuy nhỏ bé lại lớn mạnh sánh ngang với các cường quốc? Phải chăng là do ‘‘Hào kiệt đời nào cũng có”? Đó cũng chính là điểm chung giữa hai vị tướng đại tài này – Lí Thường Kiệt và Nguyễn Trãi, và cũng là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa yêu nước, lòng tự hào dân tộc.

      bởi Trần Thảo 20/09/2018
    Like (1) Báo cáo sai phạm
  • YOMEDIA

    Video HD đặt và trả lời câu hỏi - Tích lũy điểm thưởng

  • Lịch sử giữ nước hào hùng của dân tộc ta ở các thế kỉ XI, XV và XX đã được văn học nước nhà ghi lại qua một số tác phẩm bất hủ. Chúng ta còn nhớ cách đây hơn 900 năm, năm 1077, quân xâm lược nhà Tống với binh hùng tướng mạnh, hùng hổ kéo sang xâm lược nước ta. Bọn chúng đã bị người anh hùng dân tộc Lí Thường Kiệt cùng quân dân chặn đánh quyết liệt. Cuộc hành quân tàn bạo của giặc Tống bị chặn đứng trên trận tuyến sông Như Nguyệt nổi tiếng trong lịch sử. Bài thơ thần hay còn gọi là bài Nam quốc sơn hà đã ra đời trong hoàn cảnh chiến đấu ác liệt này. Bài thơ nguyên tác bằng chữ Hán:Nam quốc sơn hà Nam đế cư có nghĩa là “sông núi nước Nam là của vua nước Nam”. Điều đó đã trở thành bất di bất dịch, ở đây, Lí Thường Kiệt nói đến vua nhưng điều chủ yếu là trong giai đoạn lịch sử này, quyền lợi của dân tộc với quyền lợi của giai cấp thống trị gắn bó chặt chẽ với nhau. Nước mất thì ắt nhà tan, điều đó ai cũng hiểu. Chính vì vậy ở thời điểm đó, đế - vua không tách rời dân tộc mà biểu hiện cho sức mạnh vùng lên của dân tộc. Kế đó, tác giả nhấn mạnh thêm điều mình vừa khẳng định, nước Nam là của vua Nam, của dân Nam là điều tiệt nhiên định phận tại thiên thư - ghi rõ ràng ở sách trời, có nghĩa li mộl sự quả quyết chắc chắn. Giai cấp thống trị xưa khi cần củng cố địa vị của mình thường dùng thần quyền để mê hoặc con người. Cho nên ngay từ khi giai cấp phong kiến hình thành, chính nó đã không ngừng gieo sâu vào tiềm thức của mọi người: vua là con trời, vua thay trời trị vì dân chúng, vua là người trung gian cầm cân nảy mực trong quan hệ giữa các thành viên của xã hội phong kiến. Và cũng chính vì thế, theo quan niệm của người xưa, trời là một lực lượng siêu nhiên có uy quyền tối cao, có sức mạnh vô địch. Lí Thường Kiệt đã rất khéo léo trong việc lấy uy quyền của trời để xác nhận một cách vững chắc chủ quyền độc lập của dân tộc. Thực chất là ông đã mượn luân lí phong kiến để khẳng định quan điểm của mình. Trên cơ sở đó, rõ ràng quyền lợi của dân tộc, của đất nước đã được đặt lên trên hết. Và nếu bóc đi cái vỏ thần linh màu nhiệm ấy thì sự khẳng định của Lí Thường Kiệt không gì khác là một sự khẳng định của lí trí, của sức mạnh dân tộc, của sức mạnh chính nghĩa. Thần linh ở đây hiểu rộng ra đó chính là cha ông ta, những người đã từng làm nên lịch sử giữ nước vẻ vang và giờ đây trở thành linh hồn của đất nước tiếp sức cho con cháu bảo vệ Tổ quốc thân yêu này. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn đó. Bài thơ có thể coi là một bản anh hùng ca tràn đầy khí thế tiến công......

    Tiếp nối truyền thống quý báu cùa dân tộc, ở thế kỉ XV, nhân dân ta tiếp tục nên những trang sử chói lọi trong sự nghiệp chiến đấu giải phóng dân tộc bảo vệ Tổ quốc. Trước đó ở thế kỉ XIII, quân dân nước Đại Việt đã ba lần đánh giặc Mông - Nguyên. Đất nước chưa hoà bình được bao lâu thì giặc Minh sang gây cho dân ta bao đau thương tang tóc. Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã đứng lãnh đạo toàn dân làm một cuộc khởi nghĩa ròng rã mười năm trời, và kết bằng thắng lợi vẻ vang. Cuộc khởi nghĩa ấy đã đi vào văn học qua bài Đại binh Ngô tràn đầy tinh thần tự hào dân tộc.Niềm tự hào ấy có được là do đâu? Một điều hiển nhiên là lịch sử hào hùng dân tộc đã được xem như là một cơ sở, một điểm tựa cho một quan niệm mẻ về dân tộc, về đất nước. Tác giả đã đặt dằn tộc mình ở thế ngang hàng các triều đại phong kiến Trung Quốc, phủ nhận sự cai trị của phong kiến Trung Quốc, phủ nhận tham vọng của một nước lớn muốn thôn tính nước bé. Điều đó một lần nữa khẳng định: Dù thế nào đi chăng nữa, nước ta vẫn là một gia độc lập có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không một thế lực ngoại bang nào có thể chà đạp lên được điều đó. Tác giả đã kể tội ác tày trời của quân thù.

    Có thể nói, trải qua thử thách gian lao, ông cha ta đã dạn dày, đã hiểu thế nào là thế đứng của một dân tộc có chính nghĩa, thế nào là “lửa thử vàng gia nan thử sức”. Chính vì vậy mà trải qua những ngày nếm mật nằm gai, quân dải ta càng thêm đoàn kết sát cánh bên nhau vì sự nghiệp lớn lao.Tác giả đã thấy rõ khả năng và sức mạnh to lớn của toàn dân khi họ đoàn kết chiến đấu dưới ngọn cờ chính nghĩa giành độc lập, tự do. Hình ảnh nhân dân đã được tác giả nhắc đến trong bài. Sự nghiệp chính nghĩa là của nhân dân thuộc về nhân dân. Nhân dân là một lực lượng đông đảo, nhân dân làm nên chiến thắng và làm nên lịch sử. Và người cầm quân chính là người thấy được sức mạnh vô địch đó ở nhân dân và biết phát huy sức mạnh đó. Rõ ràng là so với Nam quốc sơn hà thì Đại cáo bình Ngô đã có một bước tiến vượt bậc. Tổ quốc, giang sơn ở đây không chỉ còn bó hẹp trong khái niệm ông vua và ông trời mà đã bao hàm một nội dung rộng lớn hơn: Tổ quốc là nhân dân. Do vậy mà không cần thiết phải viện dẫn thần linh, Nguyễn Trãi chinh phục lòng ngườibằng chính lịch sử và bằng chính chiến công trong hiện tại với một quan điểm nhân nghĩa đúng đắn.

    ==> Thế là lịch sử của dân tộc ta đã làm nên những trang sử hào hùng. Lịch sử đó đã được phản ánh vào trong văn học thông qua những nhà văn, nhà thơ lớn và đồng thời cũng là những anh hùng của dân tộc. Những áng văn thơ đó thật xứng đáng là những bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc, khẳng định chủ quyền của dân tộc, tính chất chính nghĩa của những cuộc chiến tranh hảo vệ Tổ quốc của ông cha ta trong thời đại phong kiến......

    Còn rất dài nữa nhưng mình đã tóm tắt các ý chính bạn dựa vào đây nhé! Chúc bạn học tốt!

      bởi phạm thị xoan 20/09/2018
    Like (1) Báo cáo sai phạm

Nếu bạn hỏi, bạn chỉ thu về một câu trả lời.
Nhưng khi bạn suy nghĩ trả lời, bạn sẽ thu về gấp bội!

Lưu ý: Các trường hợp cố tình spam câu trả lời hoặc bị báo xấu trên 5 lần sẽ bị khóa tài khoản

Gửi câu trả lời Hủy
 
NONE

Các câu hỏi mới

AANETWORK
 

 

YOMEDIA
AANETWORK
OFF