YOMEDIA
NONE

Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 36 - Ngữ văn 11 Tập 1 Kết Nối Tri Thức

Nhằm giúp các em hệ thống lại kiến thức đã học về đặc điểm của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, HỌC247 đã biên soạn và tổng hợp nội dung bài soạn Thực hành tiếng Việt trang 36 thuộc sách Kết nối tri thức dưới đây. Với nội dung trọng tâm bài học cùng hướng dẫn soạn bài cụ thể sẽ giúp các em chuẩn bị kiến thức trước khi đến lớp và ôn tập kiến thức thật tốt. Ngoài ra, các em có thể tham khảo thêm bài giảng Thực hành tiếng Việt trang 36 để củng cố nội dung bài học. Mời các em cùng tham khảo

 

1. Tóm tắt nội dung bài học

1.1. Khái niệm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết

Ngôn ngữ nói (còn gọi là khẩu ngữ) là ngôn ngữ âm thanh, được tiếp nhận bằng thính giác. Ngôn ngữ nói gắn liền với hoạt động giao tiếp của con người trong đời sống thường nhật như trò chuyện ở gia đình, nhà trường, nhà máy, công sở,…; phát biểu trong giờ học, cuộc họp, hội thảo; trao đổi khi mua bán ở chợ, siêu thị;…

Ngôn ngữ viết là ngôn ngữ được thể hiện bằng chữ viết, được dùng trong sách, báo, văn bản hành chính, thư từ,… Ngôn ngữ viết tồn tại trong các văn bản xuất hiện dưới nhiều hình thức vật thể khác nhau: bản viết tay, bảnh đánh máy, bản in, bản chữ nổi dành cho người khiếm thị,…

1.2. Đặc điểm của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết

- Trong một số trường hợp đặc biệt, ngôn ngữ nói cũng xuất hiện dưới hình thức văn bản viết, ví dụ: tin nhắn qua điện thoại hoặc qua các ứng dụng trên mạng xã hội, văn bản bóc băng ghi âm một cuộc phỏng vấn hay lời khai,… Những đoạn hội thoại giữa các nhân vật trong tác phẩm truyện thực chất là ngôn ngữ viết mô phỏng ngôn ngữ nói. Ở đây, ngôn ngữ nói đã được tái tạo, nghệ thuật hóa nhằm thực hiện chức năng thẩm mĩ, không còn là ngôn ngữ nói đích thực, “nguyên dạng”.

- Có những văn bản viết mà nội dung thông tin được truyền tải bằng âm thanh, chẳng hạn bài diễn văn, bản tin trên truyền hình,… Tuy các văn bản này được tiếp nhận bằng thính giác, những ngôn ngữ trong đó vẫn mang đầy đủ đặc điểm ngôn ngữ viết.

2. Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 36 - Ngữ văn 11 Tập 1 Kết Nối Tri Thức

Câu 1: Nhận xét các đặc điểm của ngôn ngữ nói được mô phỏng, tái tạo trong hai đoạn trích dưới đây:

a. Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra lúc ấy hắn cũng chưa nhận ra thị là ai. Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ địa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưới cây xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.

- Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt.

À, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng cười.

- Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hằng ngồi xuống ăn miếng giầu đã. 

- Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu. 

Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn. 

- Đấy, muốn ăn gì thì ăn.

Hắn vỗ vỗ vào túi.

- Rích bố cu, hở!

Hai con một trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả:

- Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì.

Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cầm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thì cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở:

- Hà,chẳng! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố. 

- Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.

(Kim Lân, Vợ nhặt)

b. Thoáng nhìn qua, cụ đã hiểu cơ sự rồi. Làm lí trưởng rồi chánh tổng, bây giờ lại đến lượt con cụ làm lí trưởng, những việc như thế này cụ không lạ gì. Cụ hãy quát mấy bà vợ đang xưng xỉa chực tâng công với chồng:

- Các bà đi vào nhà; đàn bà chỉ lôi thôi, biết gi?

Rồi quay lại bọn người làng, cụ dịu giọng hơn một chút:

- Cả các ông, các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại như thế này?

Không ai nói gì, người ta làng dẫn đi. Vì nể cụ bá cũng có, nhưng vì nghĩ đến sự yên ổn của mình cũng có: người nhà quê vốn ghét lôi thôi? Ai dại gì mà đứng ỳ ra đấy, có làm sao họ triệu mình đi làm chứng! Sau còn trơ lại Chí Phèo và cha con cụ bá. Bây giờ cụ mới lại gần hắn, khi lay và gọi:

– Anh Chí ơi! Sao anh lại làm ra thế?

Chí Phèo lim dim mắt, rên lên:

- Tao chỉ liều chết với bố con nhà mày đấy thôi. Nhưng tao mà chết thì có thằng sạt nghiệp, mà còn rũ tù chưa biết chừng.

Cụ bà cười nhạt, nhưng tiếng của giòn giã lắm; người ta bảo cụ hơn người cũng chỉ bởi cái cười:

- Cái anh này nói mới hay! Ai làm gì anh mà phải chết? Đời người chứ có phải con ngóe đâu?  Lại say rồi phải không?

Rồi, đổi giọng, cụ thân mật hỏi: 

- Về bao giờ thế sao không vào tôi chơi? Đi vào nhà uông nước.

Thấy Chí Phèo không nhúc nhích, cụ tiếp luôn:

- Nào đứng lên đi. Cứ vào đây uống nước đã. Có cái gì, ta nói chuyện tử tế với nhau. Cần gì mà phải làm thanh động lên như thế, người ngoài biết, mang tiếng cả. 

Rồi vừa xốc Chí Phèo, cụ vừa phàn nàn:

- Khổ quá, giá có tôi ở nhà thì có đâu đến nỗi. Ta nói chuyện với nhau, thế nào cũng xong. Người lớn cả, chỉ một câu chuyện với nhau là đủ. Chỉ tại thằng lí Cường nóng tính không nghĩ trước nghĩ sau. Ai, chứ anh với nó còn có họ kia đấy.

(Nam Cao, Chí Phèo)

Lời giải chi tiết:

a. Đặc điểm của ngôn ngữ nói được mô phỏng, tái tạo trong đoạn trích:

- Tác giả thay vai liên tục từ người kể chuyện đến lời của nhân vật Tràng, thể hiện rõ tâm trạng của nhân vật Tràng khi thị bất ngờ xuất hiện. 

- Trong lời thoại của nhân vật, tác giả sử dụng những từ cảm thán như “À”, “Hà”, “nhá”, “đấy” và những từ địa phương như “hờ”. 

→ Qua cách sử dụng ngôn ngữ nói vào trong văn viết, tác giả giúp người đọc có thể dễ dàng nắm bắt được tâm lý, cảm xúc của nhân vật qua những ngôn từ hết sức gần gũi, cụ thể. Từ đó, làm nổi bật nên cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ và trớ trêu trong tình thế khó khăn của 2 con người điển hình của nạn đói. 

b. Đặc điểm của ngôn ngữ nói được mô phỏng, tái tạo trong đoạn trích:

- Tác giả sử dụng linh hoạt từ ngữ của văn nói như “biết gì”, “ơi”, “rồi”, “ai”… 

→ Qua cách sử dụng linh hoạt ngôn ngữ nói, tác giả muốn thể hiện sự gian xảo trong lời nói cũng như con người của Bá Kiến, chỉ bằng một vài câu nói ngắn ông đã có thể xoa dịu được một Chí Phèo say rượu, hung hăng. Trọng lượng của lời nói không chỉ thể hiện ở những câu từ trau chuốt, đôi khi sự đơn giản, dễ hiểu lại có giá trị thuyết phục đối với người nghe cao hơn. 

 

Câu 2:

Phân tích các đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ viết trong đoạn trích sau:

Cái đói đã tiến đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế dặt dìu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều cho. Người chết như ngả ra. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. […]

Ngã tư xóm chợ về chiều cũng xác xơ, heo hút. Từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây  gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết.

(Kim Lân, Vợ nhặt)

Lời giải chi tiết:

Trong đoạn văn trên, tác giả đã rất dụng công trong việc trau chuốt từ ngữ, cấu trúc để gợi lên khung cảnh tang tóc, thê lương của xóm ngụ cư khi cái đói tràn về. Câu văn ngắn cùng cách diễn đạt đơn giản “Người chết như ngả rạ.”, “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào”… Kết hợp với nhiều từ láy mang ý nghĩa biểu tượng “xác xơ”, “ngăn ngắt”, “úp súp”, “heo hút”… nhằm gợi lên một khung cảnh rùng rợn, tiêu điều, đáng thương mà ở đó con người dường như trở thành những bóng ma vật vờ, đợi chờ cái chết. Cái đói năm Ất Dậu đã tràn đến xóm ngụ cư, bao trùm lên cảnh vật và con người, gợi mở ra một tương lai đen tối, cái chết cận kề đang chờ đón họ.

Ngoài ra, để củng cố và nâng cao kiến thức bài học được tốt hơn mời các em xem thêm: 

3. Hướng dẫn luyện tập

Câu hỏi: Phân tích đặc điểm của ngôn ngữ viết thể hiện trong đoạn trích sau

“Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước. Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở nước ngoài đến những đồng bào ở vùng tạm bị chiếm, từ nhân dân miền ngược đến miền xuôi, ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc. Từ những chiến sĩ ngoài mặt trận chịu đói mấy ngày để bám sát lấy giặc đặng tiêu diệt giặc đến những công chức ở hậu phương nhịn ăn để ủng hộ bộ đội, từ những phụ nữ khuyên chồng con đi tòng quân mà mình thì xung phong giúp việc tải đạn cho đến các bà mẹ chiến sĩ săn sóc yêu thương bộ đội như con đẻ của mình. Từ những nam nữ công nhân và nông dân thi đua tăng gia sản xuất, không quản khó nhọc để giúp một phần vào kháng chiến cho đến những đồng bào điền chủ quyên đất ruộng cho Chính phủ...Những cử chỉ cao quý đó tuy khác nhau nơi việc làm nhưng đều giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nước”.

(Tinh thần yêu nước của nhân dân ta – Hồ Chí Minh)

Lời giải chi tiết:

- Từ ngữ: Dùng những từ ngữ bình dị, gần gũi, dễ hiểu với đại chúng.

- Dùng từ ngữ liên kết: từ, từ những.

- Sử dụng các biện pháp nghệ thuật liệt kê, điệp từ ngữ, điệp cấu trúc câu.

4. Hỏi đáp về bài Thực hành tiếng Việt trang 36

Khi có vấn đề khó hiểu về bài soạn này cần giải đáp, các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn HỌC247 sẽ sớm trả lời cho các em. 

NONE
AANETWORK
 

 

YOMEDIA
ATNETWORK
ON