Bài giảng Bài 5: Vai trò của đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội đối với sự vận động, phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp có nội dung trình bày về giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp, cách mạng xã hội và vai trò của nó đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp. Mời các bạn cùng tham khảo và học tập!
1. Giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp
1.3 Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự vận động, phát triển của xã hội có dối kháng giai cấp
2. Cách mạng xã hội và vai trò của nó đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp
2.1 Khái niệm cách mạng xã hội và nguyên nhân của nó
2.2 Vai trò của cách mạng xã hội đối với sự phát triển của xã hội có đôi kháng giai cấp
Tóm tắt lý thuyết
1. Giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp
1.1 Khái niệm giai cấp
Trong tác phẩm sáng kiến vĩ đại, V.I. Lênin đã đưa ra định nghĩa giai cáp như sau: “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuât xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng”.
Theo định nghĩa trên đây, thực chất của sự phân hóa những con người trong một cộng đồng xã hội thành các giai cấp khác nhau, đối lập nhau là do có sự khác nhau và đối lập nhau về địa vị của họ trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định, do đó tất yếu dẫn tới việc "tập đoàn này có thể chiếm đoạt được lao động của tập đoàn khác". Do vậy, V.I.Lênin khẳng định: "Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định". Thực chát của sự phân hóa giai cấp trong xã hội chính là sự phân hóa những con người trong một cộng đồng xã hội thành những kẻ bóc lột và những người bị bóc lột. Thực tế lịch sử nhân loại mấy ngàn năm qua đã chứng minh điều này, đó là sự phân hóa những con người trong cộng đồng xã hội thành các giai cấp đối kháng nhau: chủ nô và nô lệ trong lịch sử thời cổ đại, chúa đất và nông nô thời trung cổ, tư sản và vô sản từ thời cận đại đến nay.
Thực tiễn lịch sử cũng đã chứng minh: giai cấp nào nắm được tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì cũng đồng thời có khả năng chiếm được địa vị làm chủ quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước, do đó có khả năng khách quan trở thành giai cấp thống trị xã hội, thực hiện được việc chiếm đoạt lao dộng của giai cấp khác và duy trì được tình trạng tương đối ổn định của xã hội trong điều kiện có đối kháng giai cấp.
Khái niệm giai cấp không đơn thuần là một khái niệm của khoa học chính trị, đó còn là một khái niệm phản ánh mối quan hệ khách quan trong lĩnh vực kinh tế cũng như giữa lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực chính trị của xã hội; phản ánh mối quan hệ kinh tế - chính trị giữa các tập đoàn người trong một điều kiện lịch sử nhất định. Đó là mối quan hệ không chỉ có sự khác biệt mà còn có tính chất đối lập của họ trên phương diện kinh tế và chính trị. Do vậy, việc phân tích những vấn đề về kết cấu chính trị cần phải gắn liền với việc phân tích kết câu kinh tế của xã hội theo quan điểm lịch sử - cụ thể.
Để phân tích và xử lý chính xác những vấn đề về kết cấu chính trị - xã hội không những cần nắm vững khái niệm giai cấp theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin mà còn cần phải nắm vững khái niệm tầng lớp xã hội. Khái niệm tầng lớp xã hội thường được sử dụng để chỉ sự phân tầng, phân lớp, phân nhóm giữa những con người trong cùng một giai cấp theo địa vị và sự khác biệt cụ thể của họ trong giai cấp đó như: tầng lớp công nhân lảm thuê lao động giản đơn, lao động phức tạp, lao động chuyên gia, V.V.. Khái niệm này cũng còn được dùng để chỉ những nhóm người ngoài kết câii các giai cấp trong một xã hội nhất định như: tầng lớp công chức, trí thức, tiểu nông, V.V. những tầng lớp này đều có những mối quan hệ nhât định với giai cấp này hay giai cáp khác trong xã hội.
1.2 Nguồn gốc giai cấp
Việc phát hiện ra sự tồn tại giai cấp, đối kháng và đấu tranh giai cấp không phải là phát hiện mới trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Một trong những phát hiện mới và cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin chính là ở chỗ chỉ ra rằng sự tồn tại của giai cấp, đối kháng và đấu tranh giai cấp không phải là bản tính của con người, cũng không phải là sự tiền định mà chỉ là hiện tượng có tính lịch sử theo C. Mác, "Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất".
Nguồn gốc trực tiếp của sự phân hóa giai cấp trong xã hội chính là do sự ra đời và tồn tại của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, đặc biệt là đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, bởi vì chỉ có trong điều kiện đó mới có khả năng khách quan làm phát sinh và tồn tại sự phân biệt địa vị của các tập đoàn người trong quá trình sản xuất xã hội. Do đó, dẫn tới khả năng tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động thặng dư của tập đoàn khác. Tuy nhiên, chỉ có chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vẫn chưa đủ để làm phát sinh giai cấp trong xã hội nếu chưa có sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một mức độ làm cho năng suất lao động tăng lên, do đó làm xuất hiện thời gian lao động thặng dư của xã hội, biểu hiện thành sự dư thừa của cải tương đối của xã hội. Hơn nửa, sự tồn tại của chế độ chiếm hữu tư nhân hay cộng đồng xã hội về tư liệu sản xuất không phải theo ý muôn chủ quan mà là tuân theo quy luật khách quan - quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy, nguồn gốc sâu xa của sự phân hóa giai cấp trong xã hội chính là do tình trạng phát triển nhưng chưa đạt tới trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuât. Khi lực lượng sản xuất đã đạt trình độ xã hội hóa cao thì chính nó lại là nguyên nhân khách quan của việc xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và do đó dẫn tới sự xóa bỏ giai cấp, đối kháng và đấu tranh giai câp trong xã hội. Đó là vấn đề thực tiễn của chủ nghĩa xã hội và đặc biệt là của xã hội xã hội cộng sản chủ nghĩa trong tương lai.
Sự hình thành và phát triển giai cấp trong lịch sử có thể diễn ra với những hình thức, mức độ khác nhau ở các cộng đồng xã hội khác nhau. Điều đó tùy thuộc sự tác động cụ thể của các nhân tô' khách quan và chủ quan đến tiến trình vận động, phát triển của mỗi cộng đồng người. Tuy nhiên, có thể khái quát quá trình hình thành, phát triển giai cấp ở các cộng đồng người trong lịch sử ở hai hình thức cơ bản. Đó là: sự hình thành, phát triển giai cấp diễn ra chủ yếu dưới sự tác động của nhân tô' bạo lực và sự hình thành, phát triển giai cấp diễn ra chủ yếu với sự tác động của quy luật kinh tế phân hóa những người sản xuất hàng hóa trong nội bộ cộng đồng xã hội. Ngoài ra, trong thưc tê' lịch sử còn diễn ra quá trình tác động đồng thời của cả hai nhân tố đó.
1.3 Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự vận động, phát triển của xã hội có dối kháng giai cấp
Theo V.I. Lênin, khái niệm đâu tranh giai cấp dùng để chỉ "cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản". Theo khái niệm này, thực chất của dâu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của những người lao động làm thuê, những người nô lệ, bị áp bức về chính trị - xã hội và bị bóc lột về kinh tế chống lại sự áp bức và bóc lột nó; tức là nhằm giải quyết vấn đề mâu thuẫn lợi ích kinh tế và chính trị xã hội giữa giai cấp thông trị và bị thông trị ở những phạm vi và mức độ khác nhau.
Tùy theo những điều kiện lịch sử khác nhau, các cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, với những phạm vi và trình độ khác nhau như: đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đâu tranh chính trị... Trong thực tế lịch sử, cuộc đâu tranh giai cấp có thể còn mang những hình thức đấu tranh dân tộc, tôn giáo, văn hóa và có thể có nhiều hình thức đa dạng khác.
Để khống chế và đàn áp những cuộc đấu tranh giai cấp của những người lao động làm thuê, những người nô lệ nhằm duy trì và thực hiện sự bóc lột, các giai cấp thống trị trong lịch sử (giai cấp chủ nô, giai cẩp chúa đất phong kiến, giai cấp tư sản) tất yếu phải sử dụng đến sức mạnh bạo lực có tổ chức - đó là nhà nước với những đội vũ trang đặc biệt và hệ thống pháp luật nhằm duy trì trật tự của sự thống trị giai câp. Vì vậy, vấn đề chính quyền nhà nước, quyền lực nhà nước là vấn đề trung tâm và cơ bản của cuộc đâu tranh giai cấp trong xã hội. Bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào nếu chưa giải quyết được vấn đề chiếm giữ quyền lực nhà nước thì chưa thể giải quyết được những vân đề căn bản nhất của cuộc đấu tranh giai cấp. Tuy nhiên, không phải mọi cuộc đấu tranh giai cấp đều xác định vấn đề chính quyền nhà nước, quyền lực nhà nước là vấh đề trung tâm, chỉ có sự phát triển của đâu tranh giai cấp đạt tới trình độ đấu tranh chính trị thì ván đề đó mới trở thành vấn đề hung tâm và cơ bản của nó. Đó cũng là vấn đề cơ bản của mọi cách mạng xã hội với tư cách là đỉnh cao của sự phát triển đâu tranh giai cấp.
Sự ra đời và tồn tại của nhà nước là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội có đối kháng giai cấp. Khi các mâu thuẫn xã hội đã bị đẩy đến chỗ không thể giải quyết được thì tất yếu giai cấp thống trị cần đến sức mạnh bạo lực đặc biệt để duy trì xã hội trong vòng một “trật tự” theo ý chí của nó, thực hiện lợi ích của nó. Sự ra đời và tồn tại của nhà nước không phải để giải quyết mâu thuẫn mà là để duy trì trật tự xã hội trong điều kiện mâu thuẫn không thể giải quyết được. Trong lịch sử hên hai ngàn năm qua đã từng tồn tại các kiểu nhà nước: nhà nước chủ nô thời cổ đại, nhà nước phong kiến thời trung cổ và nhà nước tư sản ở các nước tư bản từ thời cận đại đến nay. Đây là những kiểu nhà nước đúng với nghĩa đen của nó, tức là công cụ bạo lực có tổ chức nhằm khống chế cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp những người lao động. Cho dù các hình thức của mỗi kiểu nhà nước đó có khác nhau, tên gọi khác nhau (hình thức quân chủ tập quyền hoặc phân quyền, quân chủ lập hiến, cộng hòa quý tộc, cộng hòa đại nghị, cộng hòa tổng thông, v.v.) nhưng bản chất giai cấp của chúng chỉ là một - đó là công cụ chuyên chính giai cấp của các giai cấp bóc lột trong lịch sử đốĩ với nô lệ hay lao động làm thuê. Khác với các kiểu nhà nước nói trên, nhà nước chuyên chính vô sản là nhà nước kiểu mới, là “nửa nhà nước”, “nhà nước không còn nguyên nghĩa đen của nó”, tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là công cụ bạo lực có tổ chức và công cụ quản lý kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Đấu tranh giai cấp giữ vai trò là một trong những phương thức, động lực của sự tiến bộ, phát triển xã hội trong điều kiện xã hội có sự phân hóa thành đối kháng giai cấp.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, lịch sử nhân loại từ khi có sự phân hóa giai cấp đến nay, về thực chất chỉ là lịch sử của những cuộc đấu tranh giai cấp được biểu hiện dưới nhiều hình thức đa dạng với những mức độ khác nhau và mang sắc thái khác nhau. Đó là cuộc đấu tranh của những người nô lệ chống lại ách áp bức của giai cẩp chủ nô; cuộc đấu tranh của những người nông nô, những người nông dân làm thuê chống lại sự áp bức và bóc lột của bọn chúa đất, địa chủ; cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê chống lại ách áp bức và bóc lột của giai cấp tư sản. Kết quả cuối cùng của những cuộc đấu tranh đó đều dẫn tới sự ra đời của phương thức sản xuất mới thồng qua đỉnh cao của nó là những cuộc cách mạng xã hội.
Như vậy, trong điều kiện xã hội có đối kháng giai cấp thì sự phát triển của xã hội chỉ có thể thực hiện được thông qua những cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết những mâu thuẫn đôi kháng trong đời sống kinh tế và chính trị - xã hội. Trong trường hợp này, đấu tranh giai cấp không chỉ là động lực của sự phát triển lịch sử mà còn là phương thức của sự tiến bộ và phát triển xã hội.
Theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, phương thức và động lực cơ bản nhất của sự tiến bộ, phát triển xã hội là sự vận động của mâu thuẫn trong phương thức sản xuất, trong bản thân nền sản xuất vật chất của xã hội, nhưng trong điều kiện xã hội có sự phân hóa giai cấp thì mâu thuẫn đó lại được bộc lộ và biến thành mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp trong đời sông chính trị - xã hội. Trong trường hợp này, mâu thuẫn đối kháng trong đời sông kinh tế chỉ có thể giải quyết được thồng qua việc giải quyết mâu thuẫn đối kháng giai cấp trên lĩnh vực chính trị - xã hội. Như vậy, mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp đã trở thành cơ chế chính trị - xã hội để giải quyết mâu thuẫn trong phương thức sản xuất, thực hiện nhu cầu khách quan của sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sư phát triển của xã hội.
2. Cách mạng xã hội và vai trò của nó đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp
2.1 Khái niệm cách mạng xã hội và nguyên nhân của nó
Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính bước ngoặt và căn bản về chất trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, là phương thức chuyên từ một hình thái kinh tế - xã hội lỗi thời lên một hình thái kinh tế - xã hội mới ở trình độ phát triển cao hơn. Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị đã lỗi thời và thiết lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn của giai cấp cách mạng.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, cách mạng xã hội được đặc trưng bằng việc giai cấp cách mạng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền nhà nước, đồng thời tiến hành tổ chức, xây dựng và sử dụng chính quyền nhà nước mới của nó để cải tạo căn bản, toàn diện mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tức là xây dựng một hình thái kinh tế - xã hội mới. Do đó, có thể thấy vấn đề chính quyền nhà nước nhât định là vâh đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Đồng thời, cuộc cách mạng nào cũng phải trải qua hai giai đoạn: giai đoạn giành chính quyền và giai đoạn tổ chức xây dựng chính quyền mới, xây dựng xã hội mới.
Cách mạng xã hội khác với cải cách. Khái niệm cải cách dùng để chỉ những cuộc cải biôh diễn ra trôn một hay một số lỉnh vực của đời sống xã hội, trong phạm vi một hình thái kinh tế - xã hội, nhằm hoàn thiện hình thái kinh tế - xã hội đó, như: cải cách the chế kinh tế, cải cách nền hành chính quốc gia, cải cách nền giáo dục, V.V.. Khái niệm cách mạng xã hội củng khác với khái niệm đảo chính. Khái niệm đảo chứứi dùng để chỉ những sự biến tranh giành địa vị quyền lực nhà nước giữa các lưc lượng chính trị (thường là trong cùng một giai cấp) và với chủ trương không thay đổi bản chất chế độ hiện thời, nó có thể được tiến hành dưới hình thức bạo lực hoặc phi bạo lực vũ trang.
Nguyên nhân sâu xa của cách mạng xã hội là từ mâu thuẫn gay gắt trong bản thân nền sản xuất vật chất của xã hội, tức mâu thuẫn gay gắt giữa nhu cầu khách quan của 9ự phát triển lực lượng sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ sản xuất đã trở nên lỗi thời mà không một cuộc cải cách kinh tế hay chính trị nào có thể giải quyết được. Mâu thuẫn đó biêu hiện về mặt chính trị - xã hội thành cuộc đâu tranh giai câp và chính sự phát triển của cuộc đâu tranh giai cẫp này đã tất yếu dẫn đến sự bùng nổ cách mạng. Đây cũng chính là nguyên nhân khách quan của các cuộc cách mạng xã hội. Ngoài ra, mỗi cuộc cách mạng xã hội còn có nguyên nhân chủ quan của nó, đó là sự phát triển về nhận thức và tổ chức của giai cáp cách mạng, tức giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Từ đó tạo ra sự phát triển của phong trào đấu tranh giai câp từ tự phát đến tự giác và khi có sự kết hợp chín muồi của các nhân tố khách quan và chủ quan, tức tạo được thời cơ cách mạng, thì khi đó tất yếu cách mạng sẽ bùng nổ và có khả năng thành công.
2.2 Vai trò của cách mạng xã hội đối với sự phát triển của xã hội có đôi kháng giai cấp
Cách mạng xã hội giữ vai trò là một trong những phương thức động lực của sự phát triển xã hội. Không có những cuộc cách mạng xã hội trong lịch sử thì không thể diễn ra quá trình thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng một hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn. Với ý nghĩa đó mà C.Mác nhận định rằng: các cuộc cách mạng xã hội là những “đầu tầu của lịch sử”, là phương thức thực hiện sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội. Mặt khác, chính nhờ những cuộc cách mạng xã hội mà các mâu thuẫn cơ bản của đời sống xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,... được giải quyết triệt để, từ đó tạo ra động lực cho sự tiến bộ và phát triển của xã hội. Trong những thời kỳ cách mạng, năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân được phát huy cao độ, có thể sáng tạo ra lịch sử mới với một sức manh phi thường: “một ngày bằng hai mươi năm”.
Lịch sử nhân loại đã chứng minh đầy đủ và rõ nét vai trò của các cuộc cách mạng xã hội đã từng diễn ra trong lịch sử mây nghìn năm qua. Đó là: cuộc cách mạng thực hiện bước chuyên từ hình thái kinh tế - xã hội nguyên thủy lên hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ; cuộc cách mạng xóa bỏ chế độ nô lệ và thay thế nó bằng chế độ phong kiến; cuộc cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến, xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa; cuộc cách mạng vô sản thực hiện việc xóa bỏ chế độ chuyổn chính tư sản, xác lập chê' độ xã hội chủ nghĩa - đây là cuộc cách mạng vĩ đại nhất, sâu sắc nhất trong lịch sử nhân loại, làm thay đổi hoàn toàn bản chất chế độ chính trị xã hội cũ, xóa bỏ triệt để nguồn gốc chế độ tư hữu sản sinh đối kháng giai cấp đã từng tồn tại hàng ngàn năm trong lịch sử nhân loại.