Xin giới thiệu đến các em bài văn mẫu Phân tích cảm hứng yêu nước trong Phú sông Bạch Đằng dưới đây. Với bài văn mẫu này, các em sẽ cảm nhận được một cách đầy đủ về tinh thần yêu nước của nhân dân ta cùng với chiến công lịch sử hào hùng. Chúc các em học tập thật tốt nhé! Ngoài ra, để làm phong phú thêm kiến thức cho bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài giảng Phú sông Bạch Đằng.
1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý
2. Dàn bài chi tiết
a. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Phú sông Bạch Đằng là một trong những tác phẩm nổi bật của Trương Hán Siêu, qua đó, tác giả thể hiện tình yêu nước, cảm hứng yêu nước qua tình yêu với thiên nhiên, lịch sử và những giá trị tinh thần không bao giờ mai một trên con sông huyền thoại.
b. Thân bài:
- Khái quát về thể loại phú: Phú là một thể loại văn học cổ của Việt Nam, chủ yếu là văn tả cảnh, từ ngoại cảnh liên kết với nội tâm để tả tình.
- Tình yêu quê hương bộc lộ qua cách miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên trên sông Bạch Đằng được tác giả khái quát qua vài câu thơ chấm phá, thể hiện nét đẹp vừa mềm mại, tha thướt, vừa mạnh mẽ, cuộn trào.
- Cảm hứng yêu nước bộc lộ qua sự kính nể, hoài tưởng những chiến công vang dội của bậc cha ông, những kí ức vẻ vang, hào hùng của dân tộc và thất bại thảm hại của quân thù.
- Nỗi tiếc thương cho những vị anh hùng đã nằm xuống vì tổ quốc, vì độc lập dân tộc, đồng thời cảm thấy hổ thẹn, bẽ bàng vì hậu thế chưa thể làm được gì đáng tự hào cho tổ quốc.
c. Kết bài:
- Khái quát giá trị tác phẩm.
3. Bài văn mẫu
Đề bài: Em hãy phân tích cảm hứng yêu nước trong bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu bằng một bài văn ngắn.
GỢI Ý LÀM BÀI
3.1. Bài văn mẫu số 1
Yêu nước là cảm hứng không bao giờ ngưng trong dòng chảy của văn chương dân tộc suốt bao thế kỉ qua. Có cái âm vang từ thuở Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt) cất lên bên bến sông Như Nguyệt. Có cái khí thế của đội quân Sát Thát nhà Trần trong khúc hùng ca Tụng giá hoàn kinh sư(Trần Quang Khải), Thuật hoài (Phạm Ngũ Lão). Có cái ngút ngàn của binh tướng Lam Sơn trong Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi). Có cái rung chuyển của trận đánh thần tốc gắn với người anh hùng áo vải Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái)… Dẫu dừng ở điểm nào cũng vẫn thấy nguồn cảm hứng ấy cuồn cuộn dâng trào. Và Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu, một điểm dừng góp vào cho dòng chảy của văn chương yêu nước một khúc hùng ca bất diệt. Bài phú càng khẳng định vị trí đỉnh cao nghệ thuật của mình hơn khi âm hưởng yêu nước hào hùng trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo.
Cảm hứng yêu nước là một biểu hiện đa dạng, phong phú trong văn học. Đó là tình yêu thiên nhiên, phong cảnh quê hương, yêu những nét đẹp văn hóa, phong tục của dân tộc. Hay cảm hứng này thể hiện rõ nhất khi đất nước có giặc ngoại xâm. Chính là lòng căm thù giặc, tinh thần xả thân, hi sinh bảo vệ tổ quốc, âm hưởng hào hùng trong những ngày tháng chiến đấu và cả sự ngợi ca, trân trọng, biết ơn đến những bậc anh hùng. Phú sông Bạch Đằng cũng có những biểu hiện không ngoại lệ. Gọi bài phú là khúc trữ tình ca và anh hùng ca về đất nước rất phù hợp. Bởi qua đó, tác giả Trương Hán Siêu đã thổi nguồn cảm hứng yêu nước qua những cảm xúc với thiên nhiên, lịch sử, những giá trị nhân văn trên sông Bạch Đằng – con sông được coi là người chép sử vô ngôn cho hậu thế.
Mở đầu bài phú, tác giả bày tỏ ước muốn được đi đây, đi đó để thưởng ngoạn và ngắm vẻ đẹp của quê hương, đất nước.
“Khách có kẻ
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.”
Tác giả đã liệt kê một loạt những địa danh nổi tiếng, những thắng cảnh đẹp được nhiều người biết đến ở Trung Quốc như: Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt… Đây là cách nói ước lệ tượng trưng nhằm bày tỏ niềm khao khát mãnh liệt được đi du ngoạn nhiều nơi để ngắm cảnh, để cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước của Trương Hán Siêu.
Ở phần sau, qua lời nhân vật khách, ta lại thấy cảnh sông Bạch Đằng là một bức tranh sinh động, giản dị:
“Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu
Nước trời một sắc
Phong cảnh ba thu.”
Thông qua những từ láy gợi hình (bát ngát, thướt tha), kết hợp với việc nhắc đến những địa danh gắn liền với sông Bạch Đằng. Tác giả đã gợi cho người đọc vẻ đẹp hùng vĩ, bát ngát mênh mông của sông Bạch Đằng. Đồng thời tác giả cũng bày tỏ được cảm xúc của mình khi đứng trước một nhân chứng lịch sử khi hoài niệm về quá khứ oanh liệt.
“Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”
Hơn thế nữa, ta còn thấy được hào khí của quân đội trong trận chiến Bạch Đằng thông qua lời kể của các bô lão thật hào hùng và lớn mạnh qua phần bình:
“Thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới,
Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói.”
…
“Khác nào như khi xưa:
Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.”
Những chiến công vĩ đại của quân ta được kể bằng giọng văn gấp gáp, khẩn trương, tái hiện được khí thế hào hùng, mang âm hưởng của bản anh hùng ca tràn đầy niềm tự hào. Lời kể của các bô lão đã nhấn mạnh được chiến thắng vẻ vang của quân dân ta và sự thất bại thảm hại của kẻ thù.
Tác giả còn đưa ra luận bàn về nguyên nhân của cuộc thắng lợi:
“Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an.”
Các bô lão đánh giá chiến thắng này có được không chỉ nhờ địa thế hiểm trở mà còn do có nhiều người tài. Một trong những nhân tài kiệt xuất thời bấy giờ là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
Cuối cùng, tác giả kết thúc bài phú bằng lời ca của hai nhân vật khách và các bô lão. Đầu tiên là lời của các bô lão:
“Sông Đằng một dải dài ghê,
Luồng to sóng lớn dồn về biển Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.”
Những lời ca của bô lão cũng khẳng định được một triết lý vững chắc: người bất nghĩa sẽ bị diệt vong, còn anh hùng thì sẽ được lưu danh muôn thuở.
Nhân vật khách cũng nối tiếp mà ca ngợi rằng:
“Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thăng bình.
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.”
Tác giả đã ca ngợi sự anh minh của vua Trần – là người có đức cao, luôn đặt quyền lợi của quốc gia lên trên quyền lợi của cá nhân. Như vậy, ta có thể thấy được nguyên nhân thắng lợi của quân ta phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó vẫn không thể thiếu được những nhân tài và người lãnh đạo có đức cao luôn biết lo cho dân, cho nước.
Với cảm hứng và hoài niệm về quá khứ lịch sử hào hùng của dân tộc, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu đã thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc trước chiến công trên sông Bạch Đằng, đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất, truyền thống đạo lý nhân nghĩa ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm cũng chứa đựng tư tưởng nhân văn cao đẹp qua việc đề cao vai trò, vị trí của con người trong lịch sử.
Bạch Đằng giang phú được coi là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam.Tác giả đã vận dụng thủ pháp kể, miêu tả về cảnh sông Bạch Đằng sinh động, chân thật, giàu chất trữ tình. Đồng thời người đọc còn cảm nhận được những cảm xúc, những hoài niệm về quá khứ oanh liệt. Bài phú mang đậm chất sử thi hoành tráng sử dụng nhiều điển tích, điển cố chọn lọc, giàu sức gợi,những câu văn ngắn dài, phần cuối xen vào những câu thơ làm nên âm điệu hào hùng và rất trữ tình cho tác phẩm.
3.2. Bài văn mẫu số 2
Trong thời kì văn học trung đại, cảm hứng yêu nước và nỗi trăn trở chuyện nước nhà luôn là đề tài được khai thác phổ biến và sâu sắc. Xét trong hoàn cảnh thực tế, khi chỉ có nam nhân được đến trường học hành bài bản, cùng với nỗi âu sầu, khát khao cống hiến cho tổ quốc, cho nhân dân, cái "chí làm trai" luôn đặt nặng lên vai, lòng yêu nước luôn được các tác giả gửi gắm vào từng lời thơ, câu chữ. Đối với Trương Hán Siêu, một trong những tác giả nổi tiếng của văn học Việt Nam, nỗi niềm yêu nước được phơi trải với dòng sông Bạch Đằng, nơi ghi dấu biết bao huyền thoại cha ông dựng nước, giữ nước. "Bạch Đằng giang phú" hay còn gọi là "Phú sông Bạch Đằng" đã khẳng định một cách đanh thép và rõ ràng tình yêu nước hào hùng chảy tròn dòng máu Lạc Hồng, đồng thời bộc lộ sự hổ thẹn, tủi nhục khi cảm thấy bản thân chưa làm được gì cho đất nước.
Phú là một thể loại văn học cổ của Việt Nam, chủ yếu là văn tả cảnh, từ ngoại cảnh liên kết với nội tâm để tả tình. Sử dụng lối viết này, tác giả thể hiện tình cảm qua cách miêu tả thiên nhiên, vẻ đẹp của quê hương được tạo hóa ban tặng, lồng ghép sự tự hào, kính trọng tinh thần của bậc cha ông đã vì nước quên thân, hi sinh biết bao xương máu cho độc lập dân tộc, cuối cùng là kết thúc bản anh hùng ca với nỗi day dứt khôn nguôi khi bản thân chưa cống hiến cho đất nước. Qua tác phẩm, nhà thơ cũng khéo léo tái hiện lại những thước phim lịch sử oai hùng của dân tộc, những trận chiến mang tầm vóc lịch sử trên con sông Bạch Đằng huyền thoại, thể hiện sự tự hào, lòng tự tôn dân tộc, yêu mến nước nhà.
Lòng yêu nước của Trương Hán Siêu thể hiện ở cách miêu tả không gian, cảnh vật xung quanh người khách xuôi theo sông Bạch Đằng:
Qua cửa Đại Thanh, ngược bến Đông Triều
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm
Thướt tha đuôi trĩ một màu
Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu.
Vẻ đẹp thiên nhiên mở ra trước mắt với những vẻ đẹp tráng lệ trên dòng Bạch Đằng giang, một khung cảnh rung động lòng người với song, với cờ, với nước, với trời,... Đọc hai câu thơ đầu, độc giả có thể cảm nhận được lực hấp dẫn vô định của dòng sông đối với con thuyền. "Qua cửa Đại Thanh, ngược bến Đông Triều", qua những danh lam thắng cảnh hùng vĩ, qua những vùng đất mênh mông bể sở, đến với sông Bạch Đằng, con thuyền như bị cuốn, bị hút mà "bơi một chiều". Dường như không chỉ người, mà cả vật cũng bị hấp dẫn bởi vẻ đẹp nơi đây. Phong cảnh mùa thu trên dòng sông lững lờ, dòng sông lịch sử vừa có nét oai hùng, dữ dội, vừa là cô thiếu nữ thiết tha, dịu dàng trong sắc trời ảm đạm. Nước và trời hòa thành một sắc, cái sắc u buồn của mùa thu, cái sắc đìu hiu nhuộm cả vào lòng người. Trên khung cảnh của nước trời vô tận ấy là nét chấm phá của "đuôi trĩ" với vẻ đẹp "thướt tha", dịu dàng. Trong vài câu thơ ngắn ngủi mà cảm tưởng như chứa đựng được mọi khía cạnh của dòng sông, có tinh tế, lả lướt của nước, của đuôi cờ, có sự dứt khoát, mãnh liệt của "sóng kình muôn dặm", của chiến công lịch sự vang dội một thời. Tình cảm yêu nước ở đây được thể hiện ở sự đồng cảm với thiên nhiên, yêu quê hương xứ sở, thấu cảm và đồng điệu với những cảnh đẹp của quê hương mình.
Thế nhưng bên cạnh những vẻ đẹp trữ tình thơ mộng, nhân vật khách còn cảm nhận được ở con sông này vẻ lạnh lẽo, đìu hiu bởi trải qua bao nhiêu năm tháng, sông Bạch Đằng đã trở thành chứng nhân cho những cuộc chiến chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta. Nơi đây xương máu của ta và địch đã mãi chìm xuống lòng sâu, chỉ để lại trong sử sách và trong ký ức của con sông sự oanh liệt và khí thế hào hùng của thời khắc năm xưa.
“Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô
Buồn vì cảnh thảm đứng lặng giờ lâu
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”
Những hoài niệm về một thời quá vãng, cùng với cảnh vật tiêu điều hiu hắt, đã gợi lên trong lòng nhân vật “khách” những xúc cảm ưu tư, buồn bã vì dấu vết của thời gian dường như đã làm phai mờ đi những chiến công vang dội năm xưa, cho đến hôm nay khi đứng tại nơi này cũng chỉ là cảnh còn người mất, chỉ còn một vẻ hoang vắng, lạnh lẽo, nghĩ mà không khỏi xót xa, ngậm ngùi và thương tiếc không thôi. Như vậy, thông qua cách mà tác giả nhìn nhận về con sông không chỉ mang vẻ đẹp sơn thủy hữu tình, mà còn nằm ở cả dáng vẻ buồn bã, hiu quạnh, đã phần nào gợi nhắc độc giả về những chiến công lừng lẫy của ông cha ta ngày xưa ngay trên chính con sông Bạch Đằng. Đó là trận chiến chống quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, trận chiến chống quân Tống trên sông Bạch Đằng năm 981 do Lê Đại Hành chỉ huy, và trận chiến trên sông năm 1288 chống quân Mông Nguyên do Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn chỉ huy. Từ đó khơi gợi niềm tự hào dân tộc vì những chiến công lừng lẫy của cha ông, tấm lòng yêu nước sâu sắc, cùng với tinh thần chống giặc ngoại xâm bất khuất trong trái tim của mỗi người dân Đại Việt.
Chung mạch cảm xúc ấy, Trương Hán Siêu đã thoát khỏi nhân vật “khách” và chuyển qua hình tượng nhân vật “các bô lão” để tái hiện lại một cách sinh động cái không khí hào hùng vẻ vang của dân tộc trong những trận chiến lịch sử. Bằng giọng văn cường điệu, chất văn trung đại đậm tính ước lệ, tác giả đã khắc họa rõ những khoảnh khắc oai hùng, cùng truyền thống yêu nước bất khuất, kiên cường thông qua lời thuật lại của các bô lão.
“Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.
Đương khi ấy:
Thuyền tàu muôn đội, tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ bắc nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.
Kìa:
Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối.
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi.
Thế nhưng:Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối
Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
Đến nay sông nước tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.”
Lũ giặc ngang tàn “Thuyền tàu muôn đội, tinh kỳ phấp phới”, nào “Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói”, đem so sánh với quân ta thế đơn lực bạc, “Những tưởng gieo roi một lần/Quét sạch Nam bang bốn cõi”. Thế nhưng “Trời cũng chiều lòng người”, những kẻ gieo tai vạ, hung hăng bạo ngược thì ắt phải chịu kết cục tiêu vong, dù có là “Tất Liệt thế cường” hay “Lưu Cung chước đối” thì cái mối nhục tựa như trận Xích Bích hay trận Hợp Phì này cũng sẵn ngàn năm chẳng rửa nổi, có chăng nước sông chảy hoài và còn ghi mãi sự oanh liệt, hùng dũng của quân dân Đại Việt ta mà thôi. Cái cách là Trương Hán Siêu lấy những trận đánh chấn động lịch sử của Trung Quốc cổ đại đem ví như trận đánh của Đạị Việt ta trên sông Bạch Đằng, lại là một dụng ý rất khéo léo của tác giả để thể hiện lòng tự hào và tinh thần tự tôn dân tộc sâu sắc. Chẳng phải cường quốc phương Bắc vẫn tự xưng là bậc đế vương, đời đời khinh nhờn coi Đại Việt nhỏ bé là phường chư hầu, bắt tiến cống sản vật, rồi lại tùy thời xâm chiếm hay sao. Thế nhưng lịch sử đã chứng minh rằng cả ngàn năm nay đã có lúc nào dân tộc Đại Việt chịu nhục nhã, từ thời Bà Trưng, Bà Triệu, đến thời Ngô Quyền, thời Đinh, thời Lý, có biết bao lần quân giặc cũng mang hàng vạn đại quân sang ý định giày xéo nước ta, rồi cũng lại phải bỏ chạy về nước trong nhục nhã, đến mảnh giáp cũng không còn? Nhắc lại lịch sử hào hùng một thời của dân tộc, nhắc đến những “trùng hưng nhị thánh”, nhắc đến “Ngô chúa” chính là để khơi dậy lòng tự hào dân tộc, ngợi ca các bậc anh hùng kỳ tài, những bậc đế vương với biệt tài quy tụ lòng dân, tập hợp tinh thần yêu nước của cả một dân tộc làm thành sức mạnh vĩ đại sẵn sàng đương đầu với mọi sự tiến công mạnh mẽ của giặc ngoại xâm. Bộc lộ niềm tự hào, ngưỡng mộ, ngợi ca tráng chí ngút ngàn, sự dũng mãnh của quân dân Đại Việt ta xứng danh với cái tên gọi hào khí Đông A mà Phạm Ngũ Lão trong Thuật hoài đã từng nhắc đến. Từ đó thể hiện sự trân trọng, mến yêu và biết ơn sâu sắc đến những vị anh hùng đi trước, đến những con người đã ra đi đổ máu xương vì một đất nước hòa bình yên ấm như ngày hôm nay.
Có lẽ rằng lịch sử của dân tộc đã từng oanh liệt, ngút ngàn tựa như một bài trường ca dựng nước và giữ nước dài lâu mà đến ngày hôm nay, khi đứng trước sông Bạch Đằng cả “khách” và bô lão chỉ thấy những dấu tích bi thương của lịch sử, lạnh lẽo, đìu hiu, thì không khỏi thương tiếc và xúc động. Nỗi xúc động ấy không phải là nỗi đau bi lụy, mà nó lại là cái buồn thương, tiếc nuối của tấm lòng trân trọng, ngợi ca mà người đời sau dành cho người đời trước, thế mới có câu “Đứng bên sông chừ hổ mặt/Nhớ người xưa chừ lệ chan”.
Sở dĩ cả “khách” và “các bô lão” có tâm trạng ấy, cũng bởi trong lòng đã có những dự báo không tốt về vận khí của nhà Trần, khi sau 50 năm chiến thắng quân Mông Nguyên lần 3 thì nhà Trần bắt đầu có dấu hiệu suy thoái, các vị tướng kiệt xuất cũng đã mất, đất nước không người chống đỡ. Mà như Nguyễn Trãi đã viết rằng “Càn khôn bĩ rồi lại thái/Nhật nguyệt hối rồi lại minh”, nếu ngày đó đến thật thì cũng coi như khí số nhà Trần đã đến hồi tận. Những nỗi ưu tư, phiền muộn vì vận nước nay đã không bằng được như xưa, đã đem đến cho tác giả một niềm mong ước mãnh liệt, thể hiện tấm lòng trung quân ái quốc, một lòng vì mong cho nhân dân được ấm no, đất nước được vững bền ấy rằng mai đây sẽ có “vị thánh nhân ” nào đó nối bước người xưa, lần nữa vực dậy non sông Đại Việt, đưa nước ta trở về những ngày huy hàng rạng rỡ, chứ chẳng phải cảnh đìu hiu, lạnh lẽo bên bến sông, khiến người đời nhìn mà cảm khái không thôi.
Phú sông Bạch Đằng không hổ danh là tác phẩm được đánh giá là đỉnh cao của thể loại phú trung cũng như là áng thiên cổ hùng văn trong lịch sử văn học dân tộc. Một phần vừa ca ngợi cảnh sắc non sông, nhưng phần lớn chính là gợi nhắc lại lịch sử vẻ vang của dân tộc thể hiện tấm lòng yêu nước sâu sắc và lòng ngợi ca, tự hào trước những chiến công oanh liệt của dân tộc trong công cuộc chống giặc ngoại xâm ngàn năm nay. Đồng thời thức tỉnh người đọc về những giá trị quý báu trong dòng chảy lịch sử dân tộc, và vai trò quan trọng, thiết yếu của con người góp phần viết nên những trang sử hào hùng, dựng xây nên một non sông Đại Việt tươi đẹp như ngày hôm nay.
-----Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp-----