YOMEDIA
NONE

Chứng minh Văn thơ Nguyễn Trãi thể hiện tình thắm thiết với quê hương đất nước

Văn thơ Nguyễn Trãi thể hiện tình thắm thiết với quê hương đất nước > Chứng minh

Theo dõi Vi phạm
ATNETWORK

Trả lời (1)

  • Năm Đinh Hợi(1407), ngay sau khi đập tan hoàn toàn lực lượng kháng chiến của nhà Hồ, quân Minh liền thiết lập một hệ thống chính quyền đô hộ trên đất nước ta. Thời thuộc Minh(1407 – 1427) là thời của hai dòng lịch sử cùng đồng thời tồn nhưng lại khác nhau hoàn toàn về chất.
    Dòng thứ nhất là dòng áp đặt, dòn phản ánh ý chí thống trị của quân minh cướp nước. Quân Minh đã kết hợp giữa đàn áp với mua chuộc và giữa nô dịch với đồng hóa, khiến cho xã hội đương thời phải chiu trăm bề cực nhọc, đúng như Nguyễn Trãi đã viết:
    “thui dân đen trên ngọn lửa hung tàn
    Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
    (Nguyễn Trãi, Bình Ngô Đại Cáo)
    Dòng thứ hai là dòng quật khởi, dòng phải ánh ý chí kiên cường và bất khuất của nhân dân ta. Bấy giờ, hàng loạt những cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ và nhiều phong trào đấu tranh khác nhau đã liên tiếp bùng nổ: đó là khởi nghĩa Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng ( 1407 – 1413); khởi nghĩa Phạm Ngọc( 1419 – 1420); Khởi nghĩa Lê Ngã(1419 – 1420) và phong trào Áo đỏ(1407 – 1427) … tuy nhiên, lớn nhất và cuối cùng đã giành được thắng lợi trọn ven và vang dội nhất vẫn là khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi khởi xướng và lãnh đạo(1418 – 1427).
    1.2 LÊ LỢI PHẤT CỜ KHỞI NGHĨA
    Sau 3 lần chiến thắng quân Nguyên đầu thế kỷ thứ 13, nước Đại Việt vẹn toàn. Quốc đô an bình được hơn 120 năm. Đến giữa thế kỷ 15, năm 1400 khi nhà Hồ thay nhà Trần trị vì đất nước, lo toan chuẩn bị chống âm mưu xâm lược của nhà Minh (Trung Hoa). Cuối năm 1406, Trương Phụ cầm đầu 20 vạn quân nhà Minh xâm lược nước ta, lần lượt chiếm đóng hết các địa phương cho đến tận Nghệ An, biến Quốc đô thành chiến địa lần thứ 5 (lúc này gọi là Đông Đô). Hồ Quý Ly ra sau hai năm chống giặc ngoại xâm đã bị thất bại.
    Quân Minh chiếm đóng cai trị nước ta với chính sách cực kỳ tàn bạo. Bị áp bức nặng nề, nhân dân ta nổi dậy khắp nơi, liên tiếp chống lại giặc Minh. Mùa xuân năm Bính Tuất (7-2-1418) Lê Lợi – Nguyễn Trãi tụ nghĩa ở Lam Sơn tụ được nhiều nhân tài, hào kiệt tham gia cùng nhân dân ủng hộ. Từ cuộc khởi nghĩa ban đầu đã dấy lên cuộc kháng chiến chống quân Minh suốt 10 năm.
    Từ năm 1418 đến năm 1422, quân Minh liên tiếp mở các cuộc tấn công vây quét thành những chiến dịch mấy vạn quân, kéo dài 2, 3 tháng để tìm diệt nghĩa quân, dập tắt phong trào kháng chiến. Quân ta đã một lòng vượt qua muôn vàn khó khăn, anh dũng chiến đấu “lấy ít địch nhiều, lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, thu phục được lòng người, nhiều cuộc nổi dậy của nông dân tiếp tục bùng phát chống quân Minh.
    Với kế sách của Nguyễn Trãi, cùng chiến thuật quân sự tài tình của Lê Lợi nghĩa quân càng đánh càng mạnh, phát triển và bảo tồn được lực lượng, trưởng thành, thắng nhiều trận lớn, duy trì được cuộc kháng chiến cứu nước trong suốt 10 năm ròng rã “nếm mật, nằm gai”.
    Đến tháng 9-1424, khi quân Minh ngược dòng sông Lam mở các cuộc hành quân tìm diệt lực lượng, đánh phá căn cứ ta Lê Lợi – Nguyễn Trãi đã tập trung tướng lĩnh, nghĩa quân phục kích đánh thắng nhiều trận lớn “thuyền giặc đắm ngang dòng, xác địch nối lấp sông, khí giới thu chất đầy khe núi”. Thừa thắng quân ta tiến đến bao vây thành Nghệ An, đồng thời đánh chiếm các châu, huyện, phủ xung quanh. Có nơi 8.000 quân địch xin hàng theo nghĩa quân chống giặc Minh. Chỉ sau 3 tháng ta giải phóng hầu hết tỉnh Nghệ An, cô lập hai thành Diễn Châu và Nghệ An… từ tháng 9-1426, Lê Lợi – Nguyễn Trãi quyết định chuyển quân ra Bắc Hà. Quân ta đã đánh thắng nhiều trận lớn, trong đó có trận Tốt Động – Chúc Động (Chương Mỹ – Hà Tây) tiêu diệt 5 vạn tên – một trận thắng nổi tiếng.
    Sau những thất bại nặng nề liên tiếp, địch phải co lại cố thủ để xin tăng viện từ chính quốc. Vương Thông dao động, “trá hàng” chờ viện binh. Ngày 18-10-1427, Liễu Thăng chỉ huy 10 vạn quân hướng chủ yếu vào Lạng Sơn. Mộc Thạch chỉ huy 5 vạn vào hướng Hà Giang để giải cứu cho Vương Thông trong kinh thành Đông Đô. Ta chủ động vây thành diệt viện binh “Viện binh bị tiêu diệt thì thành phải hàng – Đánh một mà được hai” theo kế sách của Nguyễn Trãi.
    Quyết chiến điểm mai phục trận diệt viện binh trên hướng Lạng Sơn xuống là ải Chi Lăng với 4 vạn quân cơ động phục kích. Liễu Thăng hùng hổ dẫn đầu 1 vạn quân vào Đông Đô vào ngày 20-10-1427. Đúng vào kế mai phục của ta, cả vạn quân địch “tiên phong” này bị tiêu diệt và tan rã hoàn toàn. Liễu Thăng bị Trần Lựu của ta chém đầu tại trận bên sườn núi Mã Yên. Tiếp theo, trong gần một tháng sau ta tiêu diệt, đánh tan tác 7 vạn tên, bắt sống 3 vạn tên. Phía Hà Giang 5 vạn quân của Mộc Thạch bị tiêu hao phải tháo lui qua biên giới với các trận bám đánh của địa phương quân ta. Viện binh cả hai hướng đều bị tiêu diệt và tháo chạy, Vương Thông hoàn toàn bị cô lập mất hết nhuệ khí, hy vọng vào viện binh từ chính quốc tan tành, nên y đã xin Lê Lợi cho đầu hàng.
    Ngày 16-12-1427, Nguyễn Trãi đã tổ chức “Hội thề Đông Quan” (phía Nam Hoàng Thành) để Vương Thông đọc lời thề cam kết xin rút hết quân về nước và không bao giờ xâm phạm Đại Việt nữa. Cuối năm đó Lê Lợi đã cấp thuyền, ngựa, lương thực cho 86.000 quân sĩ Vương Thông triệt thoái an toàn khỏi nước ta. Đồng thời gửi sang vua nhà Minh mũ mão, xiên giáp, ấn tín của Liễu Thăng và nhiều tên tướng khác cùng với danh sách 27.000 tên tù binh.
    Sau 10 năm kháng chiến thắng lợi (1418-1428), vào ngày 15-4-1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế tại điện Kính Thiên trong Hoàng Thành, giữ quốc hiệu là Đại Việt, quốc đô là Đông Đô
    2. ĐÔI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
    Nguyễn Trãi là người toàn đức, toàn tài và cũng là tác gia vĩ đại trong lịch sử văn học dân tộc thời trung đại. điều này thể hiện rõ trong sự nghiệp cứu nước của ông.
    2.1 TÁC GIẢ
    Nguyễn Trãi, tên thật là Ức Trai, quê gốc ở xã Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng. Sau di cư về làng Ngọc Hồi, ngày nay là xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Tây. Nguyễn Trãi là con đầu của Nguyễn Ứng Long( sau đổi là Nguyễn Phi Khanh) và là cháu ngoại quan tư đồ Trần Nguyên Đán, nhà thơ xuất sắc cuối triều trần.
    Lúc còn trẻ, Nguyễn Ứng Long nổi tiếng là hay chữ, nên được Trần Nguyên Đán dời về nhà dạy học cho các con gái. Sau một thời gian, ông đã yêu Trần Thị Thái, con gái đàu của quan tư đồ Trần Nguyên Đán, rồi được quan tư đồ vui lòng cho ông và cô Thái kết hôn và sau đó hạ sinh Nguyễn Trãi.
    Năm 1374, Nguyễn Ứng Long thi đậu tiến sĩ nhưng vì là bân nhân mà dám lấy con gái quý tộc, nên không được làm quan mà chỉ giữ chứ quan nhỏ. Về sau ông ngoại về hưu thì đem Nguyễn Trãi theo, chẳng bao lâu thì mẹ mất, rồi năm 1390 ông ngoại cũng qua đời, Nguyễn Trãi trở về lại với cha ở Nhị Khê. Tại đây ông được cha dạy dỗ. Năm 1400 Hồ Quí Ly cướp ngôi nhà Trần rồi tổ chức khoa thi, Nguyễn Trãi thi đỗ thái học sinh, liền sau đó được trao chức Ngự Sử đài chánh trưởng. Nguyễn Ứng Long đổi tên là Nguyễn Phi Khanh, cùng ra làm qua với nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh cướp nước ta, cha con Hồ Quý Ly bị bắt đưa về Trung Quốc. Nhiều bề tôi nhà Hồ cũng bị bắt hoặc buộc phải ra hàng, trong đó có Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi muốn trọn đạo hiếu, bèn đi theo cha, nhưng Khanh dạy: “tìm cách rữa nhục cho nước, trả thù cho cha thì mới đại hiếu”. Y theo lời cha, tuy bị giặc dùng mọi cách để dụ dỗ hoặc chiêu hàng nhưng ông một mực từ chối và đã bị giặc giam lõng ở Đông Quan. Khi Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa thì Nguyễn Trãi đã có mặt rất sớm trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn này. Ông dâng cho Lê Lợi bản Bình Ngô sách(sách lược đánh giặc Ngô), trong đó ông vạch ra phương án cơ bản muốn thắng giặc Ngô là phải “không nói đén việc đánh thành mà nói đến việc đánh vào lòng người”(Ngô Thế Vinh). Tư tưởng này là một trong những nhân tố quyết định việc thắng lợi của nghĩa quân Lam Sơn
    Trong thời gian kháng chiến, Nguyễn Trãi giúp Lê Lợi trù hoạch quân mưu, góp phần xây dựng chính quyền độc lập với chính quyền xâm lược, và cũng giúp Lê Lợi soạn thảo những thư từ giao thiệp với quân Minh.
    Cuối năm 1426, nghĩa quân Lam Sơn vây thành Đông Quan, tại đây ông được phong chức Thượng thư bộ lại kiêm Hành khu mật viện sự. Đên năm 1482, cuộc kháng chiến thắng lợi, đất nước độc lập, Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết Bình Ngô Đại Cáo nổi tiếng đến giờ và nó được xem bản hùng văn tuyên ngôn độc lập nước ta lần thứ hai.
    Khi đất nước hòa bình, luận công khen thưởng Nguyễn Trãi được ban họ vua, được ban chức Quan Phục hầu vẫn giữ chứ Triều liệt đại phu. Ông cũng đóng góp sức mình vào công cuộc xây dựng đất nước vừa được giải phóng, thay vua viết nhiều chiếu, chế ban bố cho thần dân.
    2.2 TÁC PHẨM BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO
    Mở đầu bài cáo, tác giả nêu lên một tư tưởng lớn làm nguyên lí cho toàn bài.
    Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
    Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
    Đó là tư tưởng nhân nghĩa, nhưng không phải nhân nghĩa chung chung, mà gắn với mục đích “yên dân”, “trừ bạo”, mang nội dung yêu nước, thương dân. Nó đã được chứng minh bằng sự tồn tại của nước Đại Việt ta như một chân lí lịch sử:
    Như nước Đại Việt ta từ trước,
    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
    Nước non bờ cõi đã chia,
    Phong tục Bắc Nam cũng khác;
    Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên;
    Mỗi bên hùng cứ một phương;
    Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
    Song hào kiệt thời nào cũng có.
    Có đủ tất cả các yếu tố của một quốc gia độc lập tự chủ : quốc hiệu (tên nước), văn hiến, lãnh thổ, phong tục, con người và đặc biệt là “nền độc lập” đã được xây dựng từ bao đời.Những lời văn mạnh mẽ, dứt khoát, có ý khẳng định chắc chắn, NgTrãi đã khẳng định một cách hùng hồn chủ quyền dân tộc.NgTrãi nêu bật lịch sử các triều đại bằng phép liệt kê, song hành, đã khẳng định lịch sử dài lâu của đất nước, đồng thời khẳng định tư thế độc lập ngang hàng của ĐViệt với các triều đại phong kiến phương Bắc. Nó còn như khẳng định về hậu quả thất bại tất yếu của kẻ thù khi chúng xâm phạm đến độc lập chủ quyền của dân tộc ta:
    Vậy nên:
    Lưu Cung tham công nên thất bại;
    Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
    Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
    Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
    Nguyễn Trãi đã cho ta thấy những chiến công oanh liệt của dtộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn tự do của Tổ quốc.Cách nêu dẫn chứng rõ ràng cụ thể bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào dtộc.
    Nói về nước Đại Việt ta, cảm hứng của tác giả tràn đầy niềm tự hào dân tộc. Câu văn biền ngẫu sóng đôi, cân xứng tạo nên giọng điệu trang nghiêm, khẳng định khi nói về quốc gia độc lập, tự chủ: và đặc biệt nghệ thuật so sánh lại càng tôn cao và khẳng định thêm điều đó: Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại Triệu, Đinh, Lí, TRần của VN ngang hàng với các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên của Trung Quốc. Không có một niềm tự hào dân tộc mãnh liệt thì cũng khống thể có một sự so sánh như vậy.
    Đoạn 2 là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác của quân xâm lược nhà Minh.Nguyễn Trãi đã lột trần âm mưu thâm độc của chúng: lợi dụng nhà Hồ chính sự đổ nát, giặc mInh đã thừa cơ vào cướp nước ta:
    Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
    Để trong nước lòng dân oán hận.
    Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
    …….
    Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
    Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
    Tác giả khẳng định đó là tội ác “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” và kể ra những hành động tội ác man rợ của chúng. Nào là tàn sát, giết hại nhân dân kể cả các em nhỏ cũng không tha: Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn- Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ”.Rồi chúng lại bóc lột dân ta bằng thuế khoá nặng nề, ra sức vơ vét tài nguyên đất nước, đẩy người dân đến chỗ đường cùng, thậm chí tính mạng không được đảm bảo: Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng. Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
    Còn dã man, tàn bạo đến mức:
    Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
    Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
    Nặng nề những nỗi phu phen,
    Tan tác cả nghề canh cửi.
    Hậu quả bọn chúng để lại thật là tàn khốc: gia đình tan nát, vợ mất chồng, con cái thì nheo nhóc, muôn loài bị phá huỷ, tiêu diệt, sản xuất thì trì trệ, nhân dân khổ cực. Để nêu rõ tội ác của quân xâm lược, tác giả đã dụng phương pháp liệt kê có chọn lọc, sử dụng những câu văn giàu hình tượng, giọng văn thay đổi linh hoạt, phù hợp với cảm xúc.Lúc thì tỏ ra căm phẫn, tức giận đến thấu xương cái lũ xâm lược tàn bạo, lúc thì lại thể hiện sự xót xa, đau đớn cho nhân dân ta.
    Ở phần đầu bản cáo trạng là một hình ảnh đầy ấn tượng: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn- Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”, để rồi két thúc bằng một hình ảnh có giá trị tổng kết cao: “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội- Dơ bẩn thay, nước Đông hải không rửa sạch mùi”. Và cuối cùng là lời phán quyết nghiêm khắc, đanh thép của nhân dân ta về tội ác của chúng:
    Lẽ nào trời đất dung tha
    Ai bảo thần nhân chịu được?
    Năm 1406 quân Minh xâm lược nước ta. Ách đô hộ của giặc Minh đè nặng lên các tầng lớp nhân dân ta. Năm 1416, ở đất Lam Sơn- Thanh Hoá, Lê Lợi và 18 người cùng chí hướng đã làm lễ ăn thề ở Lũng Nhai, nguyện sống chết cùng nhau đuổi giặc cứu nước. Nguyễn Trãi- một tài năng xuất chúng, nổi bậc lên trong hàng ngũ tướng lĩnh nghĩa quân Lam Sơn. Ông đã góp công lớn trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh. Trong niềm hân hoan của cả dân tộc, tháng 2 năm 1428 Bình Định Vương Lê Lợi giao cho Nguyễn Trãi viết “ Bình Ngô đại cáo” tuyên bố cuộc đấu tranh chính nghĩa đã thắng lợi.
    “Bình Ngô đại cáo” thắm đậm tư tưởng nhân nghĩa, là cội nguồn sức mạnh của cuộc kháng chiến.
    Nhân nghĩa là tư tưởng của dân tộc được hình thành và phát triển xuyên suốt chiều dài lịch sử. Mục đích của nhân nghĩa đã được khẳng định là “cốt để yên dân”, là bảo vệ hạnh phúc của nhân dân. Hạnh phúc lớn nhất của dân là được sống trong môi trường hoà bình, yên ổn làm ăn, không lâm vào cảnh chết chóc ,đau thương.
    “Từng nghe:
    Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
    Quân điếu phạt trứơc lo trừ bạo”
    Nhân nghĩa là tinh thần vì dân, là chính nghĩa của nhân dân, mang bản sắc dân tộc. Nhân nghĩa ở đây không phải là lòng thương người một cách chung chung, mà nhân nghĩa là để an dân, trừ bạo ngược để cứu nước,cứu dân. Muốn yên dân thì khi có giặc ngoại xâm trước tiên phải đứng lên chống giặc “trước lo trừ bạo”.
    Nhân nghĩa gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc: “ Nước Đại Việt ta từ trước. Vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Núi sông bờ cõi đã riêng. Phong tục Bắc Namcũng khác” là niềm tự hào dân tộc "…hào kiệt đời nào cũng có”, là truyền thống yêu chính trực, ghét gian tà, căm thù sâu sắc bọn giặc cướp nước, bán nước:
    “Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây vạ
    Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
    Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
    Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ”
    Nhân nghĩa còn là sự chia sẻ, cảm thông với nổi khổ của người dân mất nước:
    “Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng
    Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nổi rừng sâu nước độc…. Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng”
    Nhân nghĩa là cội nguồn của cuộc sống. Có nhân nghĩa thì thành công , không nhân nghĩa thì thất bại. Bọn giặc Minh xâm lược đã:
    “Dối trời, lừa dân đủ muôn nghìn kế
    Gây binh, kết oán trãi hai mươi năm
    Bại nhân nghĩa, nát cả đất trời”
    Họ không có nhân nghĩa vì vậy cho nên phải chịu cảnh “ thây chết đầy đường” “máu trôi đỏ nước” “ nhơ để ngàn năm”
    Nhân nghĩa làm nên sức mạnh, vì nhân nghĩa quân ta đã:
    “Đánh một trận, sạch không kình ngạc,
    Đánh hai trận, tan tác chim muông”
    Quân ta chiến thắng vì đã:
    “Đem đại nghĩa thắng hung tàn
    Lấy chí nhân thay cường bạo”
    Nhân nghĩa còn là tinh thần yêu chuộng hoà bình, công lý, tình nhân loại , là sự hiếu sinh, hiếu hoà, sự độ lượng bao dung thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả của dân tộc ta, đã mở đường hiếu sinh cho kẻ thù khi chúng đã bị bại vong: “Tướng giặc bị cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng. Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh Mã Kỳ, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền,ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc.Vương Thông , Mã Anh phát cho vài nghìn cổ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.” Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng. Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức”
    Cuộc kháng chiến chống quân Minh diễn ra lâu dài với muôn vàn khó khăn gian khổ nhưng thể hiện tinh thần quật khởi của một dân tộc anh hùng.
    Tư tưởng nhân nghĩa trong “ Bình Ngô đại cáo ” thể hiện tinh thần nhân bản và giá trị nhân văn sâu sắc, là kim chỉ nam cho đường lối chính trị và quân sự của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng đó đã giúp cho Lê Lợi giương cao ngọn cờ chính nghĩa, hiệu triệu quần chúng tham gia đánh đuổi giặc Minh. Nó biến thành sức mạnh to lớn đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
    - Tư tưởng nhân nghĩa:
    Việc nhân dân nghĩa cốt ở yên dân
    Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
    Đập lại luận điệu của quân Minh
    Quá trình cuộc kháng chiến :
    Đường lối chiến lược, chiến thuật ở đây bao trùm từ đường lối cứu nước đến phép dùng binh đánh trận.
    “ Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh
    Ngẫm trước đến nay lẽ hươngphế đắn đo càng kĩ”
    Suy nghiệm về lẽ hưng phế của các triều đại ở nước ta từ thế kỉ thứ X đến bây giờ để rút ra những kinh nghiệm : muốn chiến thắng kẻ thù phải biết dự vào toàn dân, nhân dân lao động. Đó chính là cái gốc để cho triều đại được bền vững lâu dài. Cái đường lối chiến lược, chiến thuật đó được thể hiện khá cụ thể :
    “ Thế trận xuất kì lấy yếu chống mạnh
    Dùng quân mai phục lấy ít địch nhiều”
    “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
    Lấy chí nhân để thay cường bạo”
    Giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến:
    Giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến nghĩa quân Lam Sơn gặp rất nhiều khó khăn, thiếu nhân lực, thiếu người tài giỏi, thiếu lương thực, nhiều khi bị quân Minh Đánh cho tan tác.
    “ Tuấn kiệt như sao buổi sớm
    ................................................
    Khi Khôi Huyện quân không một đội”
    Giai đoạn sau của cuộc kháng chiến :
    Tuy gặp khó khăn, thất bại lúc ban đầu nhưng nhờ có tinh thần quyết tâm chiến đấu, “ Gắng chí khắc phục giang nan”, được nhân dân khắp nơi ủng hộ, tướng sĩ trên dưới một lòng, có đường lối chiến lược, chiến thuật đúng đắn nên nghĩa quân Lam Sơn càng đánh càng chiến thắngvang dội, không có sức mạnh nào có thể ngăn được sức tiến công vang dội như vũ bão của nghĩa quân:
    “Đánh một trận, sạch không kinh ngạc
    Đánh hai trận tan tác chim muông
    Nỗi gió to quét sách lá khô
    Thông tổ kiến phá toang đê vỡ”
    Chỉ trong vòng mười ngày mà nghĩa binh đã làm nên những kì tích anh hùng chưa từng có:
    “ Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
    Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
    Ngày hăm nhăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
    Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẩn”.
    Cái hào khí ngất trời của Nguyễn Trãi còn thể hiện qua việc ông miêu tả sự thất bại thảm hại của quân Minh bằng cách dùng hình ảnh, từ ngữ sinh động, cụ thể đầy gợi tả như : “ Nghe hỏi mà thất vía”, “ Nín thở cầu thoát thân”, “ bêu đầu”, “ bỏ mạng”, “ Liễu Thăng cụt đầu”, “đại bại tử vong”. “ cùng kế tự vẩn”, “ lê gối vâng tờ tại tội”, “ trói tay để tự xin hàng” ....nhất là đã gọi vua nhà Thanh là “ thằng nhải con Tuyên Đức”. Chưa bao giờ cái hào khí dân tộc lại dâng cao như lúc này.
    Trong phần này, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi lại được khắc sâu thêm một lần nữa. Ông đặt quyền lợi của nhân dân, đất nước lên trên hết nên đã tha chết cho kẻ thù khi chúng bị thất bại, còn cấp thuyền cấp ngựa cho chúng về nước:
    “ Thần Vũ chẳng giết hạ, thể lòngtrời ta mở đường hiếu sinh
    Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền
    Ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc
    Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cổ ngựa
    Về đến nước mà vẫn tim đập, chân run
    Họ đã tham sống, sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
    Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức”.
    Phần kết thúc.
    Nguyễn Trãi đã thay mặt Lê Lợi tuyên bố kết thúc cuộc kháng chiến:
    Xã tắc từ đây vững bền
    Giang sơn từ đây đổi mới
    Kiền khôn bỉ mà lại thái
    Nhật nguyệt hối mà lại minh.
    Đồng thời Nguyễn Trãi đã khẳng định quyền đôc lập, tự chủ lâu dài của đất nước:
    Muôn thuở nền thái bình vững chắc.
    Lịch sử sang trang, đất nước bước vào một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của hoà bình độc lập tự do :
    “ Một cổ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm
    Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”
      bởi Bích Chè Rôn 22/03/2019
    Like (0) Báo cáo sai phạm

Nếu bạn hỏi, bạn chỉ thu về một câu trả lời.
Nhưng khi bạn suy nghĩ trả lời, bạn sẽ thu về gấp bội!

Lưu ý: Các trường hợp cố tình spam câu trả lời hoặc bị báo xấu trên 5 lần sẽ bị khóa tài khoản

Gửi câu trả lời Hủy
 
NONE

Các câu hỏi mới

AANETWORK
 

 

YOMEDIA
ATNETWORK
ON