Phân tích cái ngông của nhà thơ Tản Đà trong bài thơ Hầu Trời.
Phân tích cái ngông của nhà thơ Tản Đà trong bài thơ Hầu Trời.
Trả lời (2)
-
Tản Đà là một trong những thi sĩ đi đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. ông là người thứ nhất đã có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng, bạo dạn, dám giữ một cái tôi.
Bằng bản lĩnh của mình, Tản Đà mang đến một luồng sinh khí mới cho nền văn học Việt Nam. Thi sĩ trực tiếp thể hiện cái tôi bản ngã của mình một cách hết sức độc đáo và mới mẻ. Và "Hầu Trời” là một trong những bài thơ kết tinh những nét riêng độc đáo đó.
Như Hoài Thanh đã nói "Tiên sinh là người của hai thế kỉ”, Tản Đà là người đã đặt được dấu gạch nối giữa văn học truyền thống và văn học hiện đại, là người "dạo bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đương sắp sửa” (Hoài Thanh). Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, ông sống khoáng đạt và đã đeo "túi thơ” đi khắp cuộc đời mình. Là một cây bút tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, ông để lại khá nhiều tác phẩm cho đời. Trong đó đáng kể là "Hầu Trời” được trích trong tập Còn chơi (1921). Bài thơ đã thể hiện rõ cái tôi cá nhân của Tản Đà thông qua sự việc lên thiên đình đọc thơ.
Trong sáng tác văn học, không phải ai cũng thể hiện được cái tôi của mình trên trang viết. Cái tôi gắn liền với cá tính sáng tạo của một người cầm bút. Điều đó đòi hỏi người viết phải thể hiện được cái riêng có giá trị thẩm mĩ cao, có khả năng đóng góp tích cực cho nền văn học chung.
Tản Đà-nhắc đến thi nhân là nhắc đến "xê dịch, ngông và đa tình”. Ba yếu tố đủ để làm nên một cái tôi riêng trong làng thơ Việt Nam. Nhưng có lẽ, cái tôi độc đáo của nhà thơ đã thể hiện trong "Hầu Trời” là một cái tôi ngông rất lạ. "Ngông” không phải chỉ định một kiểu ứng xử xã hội và nghệ thuật khác. Cái ngông ở đây được nói đến là ngông dựa trên khả năng mình có, nghĩa là chỉ những người tài năng, tự tin bởi cái tài của mình, tự tin để khẳng định nó với đời mới là cái ngông được người đời chấp nhận. Người ngông tạo cho mình những phong cách riêng, khác người nhưng để lại những ấn tượng sâu đậm.
Chất ngông thương được thể hiện bởi các nhà văn, nhà thơ có ý thức cao độ về cái tài và cái tình. Với cái tài đó, họ mang ra phục vụ cho đời nhưng cũng là để "đóng dấu” hình ảnh của mình với thời gian. Họ có thể ngông bởi họ có tài, họ có cái để hãnh diện, để thách thức với cuộc đời, với người đời và cũng bởi trong cuộc sống, mỗi con người họ đã là một tính cách riêng, một sự phá cách không thể trộn lẫn với một người nào khác. Và cái ngông ấy trong "Hầu Trời” đã tạo ra cho nhà thơ một cái tôi độc đáo.
Nhà thơ ý thức sâu sắc về tài năng của mình. Vì vậy tiếng ngâm thơ "vang cả sông Ngân Hà” khiến Trời mất ngủ là ở chỗ ấy.
"Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải thảng thốt không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật than thể
Thật được lên tiên sướng lạ lùng!”.
Cái duyên được lên hầu Trời gắn liền với câu chuyện văn thơ, gắn liền với những phút cảm hứng của nhà thơ. Chuyện tưởng tượng nhưng như thật, có lẽ cái tôi độc đáo của Tản Đà là ở chỗ vào đề tự nhiên, hấp dẫn nhưng có duyên. Để thế gian thấy tài năng của nhà thơ đã khó vậy mà ngay đến Trời còn say mê, chư tiên yêu thích thì thật lạ lùng. Vậy mới thấy được cái ngông của nhà thơ biểu hiện mạnh mẽ qua bài Hầu Trời. Đã có dịp được lên Thiên đình, vì thế Tản Đà tranh thủ "quảng cáo” tài năng của bản thân:
"Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc
Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè Trời nhấp giọng càng tốt hơn.”
Tác giả đọc thơ rất tự tin, khoe tài của mình, đọc cao hứng và nhập thân vào tác phẩm. Qua đó bộc lộ cái tôi in đậm phong cách cái tôi cá nhân tự ý thức của chính ông. Sẵn tiện nhà thơ giới thiệu luôn những tác phẩm của mình:
"Bẩm con không dám man cửa Trời
Những áng văn con in cả rồi
Hai quyển Khối tình văn thuyết lí
Hai Khối tình con là văn chơi
Thần tiền, Giấc mộng văn tiểu thuyết
Đài gương, Lên sáu văn vị đời
Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch
Đến quyển Lên tám nay là mười
Nhờ Trời văn con còn bán được
Chửa biết con in ra mấy mươi?”
Nhà thơ có vẻ rất đắc ý bởi ông ý thức được cái tài của mình. Khẳng định bản ngã cái tôi phóng túng, ý thức tài năng giá trị của mình giữa cuộc đời. Trước Tản Đà các nhà nho tài tử đều hết thảy thị tài nhưng chữ tài mà họ nói tới nhiều khi mang một nội hàm khá rộng. Họ không dám nói đến cái hay, cái "tuyệt” của thơ mình, hơn nữa, lại nói trước mặt Trời. Rõ ràng ý thức cá nhân ở nhà thơ đã phát triển rất cao độ. Chính vì vậy mà đến Trời cũng phải tán thưởng:
"Văn dài hơi tốt ran cung mây!
Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay.
Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc xong một bài cùng vỗ tay.”
"Trời lại phê cho: Văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!”
Chính vì tình yêu văn chương, ông mới tự tin sáng tác, chuyển tải những tư tưởng tình cảm mới mẻ vào trang thơ. Dường như với ông, hầu Trời là khoảnh khắc đẹp nhất. Vì thế ông mới đem cái tài của mình để thể hiện trước Trời cùng chư Tiên. Và lúc này quan niệm mới mẻ của ông được bộc lộ: sáng tác văn chương là một nghề. Dù không biểu hiện trực tiếp nhưng đằng sau các câu chữ ta vẫn thấy có một sự hình dung khác trước về hoạt động tinh thần đặc biệt này. Với Tản Đà, văn chương là một nghề kiếm sống mới, có người bán kẻ mua, có thị trường tiêu thụ và bản thân thị trường đó cũng hết sức phức tạp, không dễ chiều. Đặc biệt hơn dương như nhà thơ đã ý thức được sự cần thiết phải chuyên tâm với nghề văn, phải có vốn để theo đuổi nó:
"Nhờ Trời văn con còn bán được”
"Vốn liếng còn một bụng văn đó”
Thật ngang tang khi thi sĩ muốn "gánh văn” lên Trời để bán.
"Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
-"Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”
Làm náo động thiên cung bằng những lời văn giàu thay lắm lối, nay nhà thơ còn muốn văn của ông được lan rộng cung đình để mọi người biết đến ông- một tài năng thực thụ của trần thế. Thế mới thấy được cái tôi mạnh mẽ đến nhường nào.
Qua bài thơ "Hầu Trời” không dừng lại ở đó, Tản Đà còn vạch ra thực tế phũ phàng: tài năng không thống nhất với số phận. Ở cuộc đời nhà thơ thiếu tri âm, tri kỉ và bất hòa với cuộc đời:
"Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó
Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.”
Vì vậy ông khát khao lên Trời đọc thơ và tìm được người tri âm. Chỉ có Trời và chư tiên mới hiểu cái hay, cái đẹp trong thơ ông. Và lời Trời khen hắn là sự thẩm định có sức nặng nhất, không thể bác bỏ, nghi ngờ. Đúng là lối tự khẳng định rất ngông ngạo của nhà thơ.
Để Trời hiểu thơ, khen văn thơ tuyệt, Tản Đà liền đó "tâu trình” rõ ràng thân thế của mình, phù hợp hoàn toàn mạch chuyện:
"Dạ bẩm lạy Trời con xin thưa
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á châu về Địa Cầu
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”.
Khác người xưa, Tản Đà đã tách tên, họ theo một kiểu công khai lý lịch rất hiện đại, lại còn nói rõ bản quán, châu lục, trên hành tinh. Qua đó ông thể hiện niềm yêu nước tha thiết, đầy tự hào về bản thân, ý thức cá nhân tự tôn dân tộc sâu sắc. Một cái tên- tên thật chứ không phải tự hay hiệu- mà được nói ra trịnh trọng đến vậy hẳn nhà thơ phải thấy có một giá trị không thể phủ nhận gắn liền với nó. Cũng qua câu thơ, tác giả ngầm giới thiệu bút hiệu của mình. Tản Đà là con người khoe tài, thị tài và rất ngông cho nên trước chư tiên không bao giờ kiềm chế mà luôn thể hiện hết tài hoa của mình.
Từ đầu đến cuối nhà thơ đều tự tin về tài năng của bản thân và một lần nữa Tản Đà lại khẳng định rất "ngông”, của kẻ vốn đã "ngông” khi nhận mình là "trích tiên” bị đày xuống hạ giới vì tội ngông. Nhà thơ khẳng định tài năng và thân phận "khác thường của mình”.
Sự khác thường đặc biệt này còn nằm ở việc thi sĩ được thừa nhận là một người nhà Trời, được sai xuống hạ giới thực hiện một sứ mệnh cao cả”việc thiên lương của nhân loại”, "Trời rằng không phải Trời đày, Trời định sai con một việc này, Là việc "thiên lương” của nhân loại, Cho con xuống thuật cùng đời hay”. Một lần nữa cái ngông ấy lại được thổi vào trong ý thơ. Nhưng cái ngông ấy chẳng qua là vì nó đối lập lại với cả xã hội bất công, vì ông phải đi làm công việc là tìm lại thiên lương vốn đang bị mai một của con người:
"Hai chữ thiên lương thằng Hiếu nhớ
Dám xin không phụ Trời trông mong”
Nhà thơ ý thức về nhân cách, một nhân cách vượt ra khỏi mọi sự ràng buộc về danh lợi. Nó đối lập với cái xã hội bất công vụ lợi, chạy theo đồng tiền và danh lợi thời bấy giờ.
Cuối cùng nhà thơ vẫn muốn khẳng định, tự khen thơ mình. Thơ thi nhân chẳng những đẹp mà còn ẩn chứa những ý niệm cao siêu về cuộc đời, về thiên lương, nhân sinh thế giới quan… Tóm lại là tất cả những gì nhân loại cần có để vươn đến cái chân- thiện- mỹ. Thoát ra khỏi quan niệm "thi dĩ ngôn chí” , Tản Đà thực sự thăng hoa trong thế giới nghệ thuật, bộc lộ cảm xúc cái tự do cá nhân mới mẻ của riêng mình.
Kế thừa nét ngông của truyền thống, song trong sự ngông của Tản Đà, người ta không thấy cái ngông đến mức lấy thú ăn chơi hưởng lạc có phần tiêu cực như một cách để đối lại với đời như Nguyễn Công Trứ. Và cũng không thấy cái ngông trong việc đi tìm một phong cách, một lối thể hiện riêng của người tôn thờ cái đẹp như Nguyễn Tuân. Cái ngông của Tàn Đà là cái ngông của một người chìm đắm trong mộng: mộng về cuộc đời, mộng về sự đổi thay, say để mộng, mộng để ngông với người đời. Nhưng có thể thấy rằng, họ gặp nhau ở một điểm cơ bản mà nếu như thiếu nó thì sẽ không thể "ngông” được đó là cái tài, cái tình và ý thức về cái tôi bản ngã của chính mình. Họ làm nên những phong cách nghệ thuật riêng độc đáo, nhưng ấn tượng đặc biệt, không thể nào phai trong lòng người đọc và không lẫn với cái ngông của nhà thơ nào khác.
Bài thơ "Hầu Trời” đã kết tinh cái tôi của Tàn Đà. Nhưng không chỉ trên phương diện nội dung, những nét độc đáo và mới mẻ còn làm nên cái tôi trong nghệ thuật. Có lẽ "Hầu Trời” có vẻ quá dài nhưng chính điều đó lại tạo cho bài thơ giàu yếu tố tự sự. Hơn thế, nguyên tắc tôn trọng dòng chảy tự nhiên,sống động của cảm xúc cá nhân, cá thể của thơ cho phép nhà thơ thoát khỏi những ràng buộc quá khắt khe về hình thức để tự do vẫy vùng thể hiện tư tưởng tình cảm của mình. Thể thơ thất ngôn trường thiên được viết một cách phóng túng, tự do theo cá tính riêng của nhà thơ.
Bên cạnh đó, "Hầu Trời” còn đáng chú ý với hiện tượng chia khổ, các khổ có độ dài khác nhau tạo nên cảm xúc tự do và nét mới trong thơ văn. Cách thể hiện của Tản Đà đã vượt ra khỏi quy phạm nội dung và nghệ thuật, muốn phá cách để thể hiện rõ cái tôi của ông.
Nét độc đáo trong cái tôi của Tản Đà là sự dung hòa nhiều yếu tố khác nhau. Tất cả tạo nên ở thi sĩ tính cách của một nhà Nho tài tử, đa tình, ngông và xê dịch. Cái cũ và mới, xưa và nay đan xen đưa Tàn Đà trở thành người nối kết hai thời đại thi ca, trở thành ngôi sao sáng với vẻ đẹp rất riêng trên bầu Trời văn học Việt Nam.
bởi thu phương 31/12/2019Like (0) Báo cáo sai phạm -
Tản Đà (1889 – 1939) Tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, Quê ông ở Sơn Tây thuộc Ba Vì, Hà Nội ngày nay. Tản Đà được coi là “người nằm vắt mình qua hai thế kỉ”, là gạch nối giữa thơ mới và thơ cũ, là người đặt nền móng cho thơ mới. Những đánh giá ấy đã xác nhận vị trí quan trọng của Tản Đà đối với văn học Việt Nam giai đoạn giao thời. Ông là đại diện tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn này, giai đoạn văn học dân tộc có những bước chuyển mình, bắt đầu cho giai đoạn hiện đại hoá mau lẹ. Hầu trời là một bài thơ có rất nhiều điểm mới ra đời trong hoàn cảnh khuynh hướng lãng mạn khá đậm nét trong văn chương thời đại, xã hội thực dân nửa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy cảnh ngang trái, xót đau.
Trong sáng tác văn học, không phải ai cũng thể hiện được cái tôi của mình trên trang viết. Cái tôi gắn liền với cá tính sáng tạo của một người cầm bút. Điều đó đòi hỏi người viết phải thể hiện được cái riêng có giá trị thẩm mĩ cao, có khả năng đóng góp tích cực cho nền văn học chung. Tản Đà-nhắc đến thi nhân là nhắc đến “xê dịch, ngông và đa tình”. Ba yếu tố đủ để làm nên một cái tôi riêng trong làng thơ Việt Nam. Nhưng có lẽ, cái tôi độc đáo của nhà thơ đã thể hiện trong Hầu Trời là một cái tôi ngông rất lạ. “Ngông” không phải chỉ định một kiểu ứng xử xã hội và nghệ thuật khác. Cái ngông ở đây được nói đến là ngông dựa trên khả năng mình có, nghĩa là chỉ những người tài năng, tự tin bởi cái tài của mình, tự tin để khẳng định nó với đời mới là cái ngông được người đời chấp nhận. Người ngông tạo cho mình những phong cách riêng, khác người nhưng để lại những ấn tượng sâu đậm.
Chất ngông thương được thể hiện bởi các nhà văn, nhà thơ có ý thức cao độ về cái tài và cái tình. Với cái tài đó, họ mang ra phục vụ cho đời nhưng cũng là để “đóng dấu” hình ảnh của mình với thời gian. Họ có thể ngông bởi họ có tài, họ có cái để hãnh diện, để thách thức với cuộc đời, với người đời và cũng bởi trong cuộc sống, mỗi con người họ đã là một tính cách riêng, một sự phá cách không thể trộn lẫn với một người nào khác. Và cái ngông ấy trong Hầu Trời đã tạo ra cho nhà thơ một cái tôi độc đáo.
Nhà thơ ý thức sâu sắc về tài năng của mình. Vì vậy tiếng ngâm thơ “vang cả sông Ngân Hà” khiến Trời mất ngủ là ở chỗ ấy.
“Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải thảng thốt không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật than thể
Thật được lên tiên sướng lạ lùng!”.
Điệp từ "thật" nhấn mạnh cảm xúc của thi nhân, những câu cảm thán bộc lộ cảm xúc bàng hoàng, câu khẳng định dường như lật lại vấn đề mơ mà như tỉnh,hư mà như thực. Cách giới thiệu ấy đã gợi cho người đọc về một tứ thơ lãng mạn nhưng cảm xúc là có thực. Tác giả muốn người đọc cảm nhận được cái hồn cốt trong cõi mộng, mộng mà như tỉnh, hư mà như thật. Cách vào chuyện đầy độc đáo và có duyên ấy làm cho câu chuyện mà tác giả sắp kể trở nên lôi cuốn.
Rồi nhà thơ kể về hoàn cảnh bắt đầu câu chuyện đầy li kì của mình:
Nguyên lúc canh ba nằm một mình
Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh
Nằm buồn ngồi dậy đun nước uống
Uống xong ấm nước nằm ngâm văn
Vậy là cái không gian mở đầu đã rất đầy đủ, thời gian – canh ba; không gian – đêm khuya; hoạt động – nằm một mình, uống nước ngâm thơ, rất đầy đủ để đọc giả tưởng tượng ra một buổi đêm hết sức vắng lặng, quạnh quẽ. Đó là cái nền hấp dẫn để bắt đầu một câu chuyện lên tiên của nhà thơ. Vẫn những lời kể rất tự nhiên, nôm na. Cái lý do lên trời cũng rất độc đáo mà hợp lý.
Trời nghe hạ giới ai ngâm nga
Tiếng ngân vang cả sông Ngân hà
Làm trời mất ngủ trời đương mắng
Có hay lên đọc trời nghe qua
Mượn lời của nhà trời để nói về tiếng ngâm của mình "vang cả sông Ngân hà". Ở đây ta đã thấy rõ cái tôi cá nhân đầy chất lãng mạn bay bổng pha chút ngông trong tác giả. Điều này càng rõ ràng khi thi nhân đọc thơ và nói về các tác phẩm của mình.
Đọc hết văn vần lại văn xuôi
Hết văn thuyết lý lại văn chơi
Nhà thơ đọc rất cao hứng, sảng khoái và có phần tự đắc. Ông cũng kể tường tận về các tác phẩm của mình:
Hai quyển khối tình văn lý thuyết
Hai khối tình còn là văn chơi
Thần tiên giấc mộng văn tiểu thuyết
Giọng đọc của Tản Đà rất đa dạng, hóm hỉnh và ngông nghênh. Đoạn thơ đã cho thấy ông rất ý thức về tài năng văn thơ của mình, cũng là người táo bạo dám đường hoàng bộc lộ cái tôi cá thể. Ông cũng rất "ngông" khi tìm đến trời để thể hiện tài năng. Đây cũng là khát khao chân thành trong tâm hồn Tản Đà.
Sự độc đáo ở đoạn thơ còn thơ còn thể hiện ở việc thi nhân tự khen thơ mình nhưng lại để cho trời và chư tiên khen ngợi:
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn
"Anh gánh lên đây bán chợ trời"
Trời lại phê cho văn thật tuyệt
Văn trần được thế chắc có ít
Người ở phương nào ta chưa biết.
Trời khen rất nhiệt thành: "văn thật tuyệt, văn chuốt như sao băng…" chư tiên thì xúc động, hâm mộ và tán thưởng: "tâm nở dạ, cơ lè lưỡi.." Đây là một lối ngông rất đáng yêu của thi sĩ. Cả đoạn thơ đậm chất lãng mạn. Đồng thời ở đây ta cũng thấy rõ tư tưởng thoát li của nhà thơ – muốn trốn thoát khỏi chốn trần tục, văn thơ của ông chỉ xứng cho người trời nghe, người đời không hiểu, không cảm hết được giá trị, tầm vóc của nó.
Ở đoạn thơ tiếp theo nhà thơ đã hiên ngang khẳng định cái tôi của mình gắn liền với tên tuổi thật của mình:
Con tên Khắc Hiếu họ Nguyễn
Quê ở Á châu về địa cầu
Sông Đà núi Tản nước Việt Nam
Trong văn chương việc thể hiện họ tên trong tác phẩm chính là một cách để thể hiện cái tôi của mình. Đó là thái độ ngông của người có tài, biết trân trọng khẳng định tài năng của mình. Trong thời đại của Tản Đà, đất nước đang mất chủ quyền, tự giới thiệu như là cách thể hiện sự tự hào, tự tôn dân tộc. Nhà thơ còn khẳng định phong cách ngông của mình một cách hóm hỉnh:
"Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới vì tội ngông"
Trong cuộc đối thoại với tưởng tượng với trời nhà thơ còn khẳng định trách nhiệm và nghĩa vụ cao cả của mình là lo việc "thiên lương". Phải chăng đó cũng là lời khẳng định về thiên chức của những người cầm bút. Đây là tình huống được tác giả xây dựng đầy hợp lý để có cơ hội giãi bày về cái nghề của mình.Thi nhân kể về cuộc sống – đó là một cuộc sống nghèo khổ, túng thiếu, thân phận nhà văn bị rẻ rúng, ở trần gian không tìm được tri âm phải lên cõi trần để thỏa nguyện nỗi lòng:
Bẩm trời cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó
Nhà thơ Tản Đà được coi là người đặt nền móng cho thơ hiện đại không chỉ bởi hơi thở mới mẻ trong thơ ông, cái tôi hiên ngang trong các áng văn thơ của ông mà còn bởi ông là người đầu tiên “mang văn chương ra bán phố phường”. Hầu Trời
Qua đoạn thơ ấy ta thấy hiện lên một bức tranh đầy chân thực và cảm động về cuộc sống của người nghệ sĩ trong xã hội bấy giờ, một cuộc sống cơ cực, không tấc đất cắm dùi, thân phận bị rẻ rúng, làm chẳng đủ ăn… Cả đoạn văn là cảm hứng hiện thực bao trùm.
Ở đây nhà thơ cũng ý thức rất rõ về trách nhiệm của mình là truyền bá thiên lương. Điều đó giúp ta chứng tỏ Tản Đà lãng mạn chứ không thoát ly hoàn toàn. Ông vẫn ý thức về trách nhiệm, nghĩa vụ với đời là góp phần đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn. Đó là sự khẳng định mình trước cuộc đời, khao khát được gánh vác việc đời.
Với Hầu trời, Tản Đà đã đem lại cho văn học Việt nam đầu thế kỉ một luồng không khí mới. Qua một câu chuyện tưởng tượng đầy hào hứng. Ta đã thấy một cái tôi ngông nghênh, hào hoa và cái tôi cô đơn bế tắc trước thời vận. Tản Đà cũng đã tự tin khẳng định tài năng nói lên quan điểm văn chương thực hiện thiên lương của mình. Viết văn hay làm cho cuộc đời tốt đẹp hơn là sứ mạng mà trời đã giao cho nhà thơ. Với cách kể chuyện hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn người đọc, ngôn ngữ thơ tinh tế, gợi cảm, cảm xúc tự nhiên phóng túng trong thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do đã cho ta một tuyệt tác thi ca kì diệu.
bởi khanh nguyen 31/12/2019Like (0) Báo cáo sai phạm
Video HD đặt và trả lời câu hỏi - Tích lũy điểm thưởng
Nếu bạn hỏi, bạn chỉ thu về một câu trả lời.
Nhưng khi bạn suy nghĩ trả lời, bạn sẽ thu về gấp bội!
Lưu ý: Các trường hợp cố tình spam câu trả lời hoặc bị báo xấu trên 5 lần sẽ bị khóa tài khoản
Các câu hỏi mới
-
"Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực. Thay bút con, đề xong lạc khoản, ông Huấn Cao thở dài, buồn bã đỡ viên quan ngục đứng thẳng người dậy và đĩnh đạc bảo: - Ở đây lẫn lộn.Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng trẻo với những nét chữ vuông vắn tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người. Thoi mực, thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?...Tôi bảo thực đấy: thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi. Lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo. Ba người nhìn bức châm, rồi lại nhìn nhau. Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh". 1) Đoạn trích trên trích trong tác phẩm nào? của tác giả nào? Miêu tả cảnh gì ? 2) Cảnh tượng trên hàm chứa nhiều yếu tố tương phản. Hãy chỉ ra những yếu tố tương phản đó. 3) Nguyễn Tuân đã thể hiện quan niệm nghệ thuật gì qua lời khuyên của Huấn Cao đối với quản ngục ? Ý nghĩa của cái Đẹp với cuộc sống con người được khẳng định như thế nào qua cử chỉ, thái độ và lời nói của quản ngục với Huấn Cao? KHÔNG CHÉP MẠNG
25/11/2022 | 0 Trả lời
-
đọc hiểu "Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực. Thay bút con, đề xong lạc khoản, ông Huấn Cao thở dài, buồn bã đỡ viên quan ngục đứng thẳng người dậy và đĩnh đạc bảo: - Ở đây lẫn lộn.Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng trẻo với những nét chữ vuông vắn tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người. Thoi mực, thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?...Tôi bảo thực đấy: thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi. Lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo. Ba người nhìn bức châm, rồi lại nhìn nhau. Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh". 1) Đoạn trích trên trích trong tác phẩm nào? của tác giả nào? Miêu tả cảnh gì ? 2) Cảnh tượng trên hàm chứa nhiều yếu tố tương phản. Hãy chỉ ra những yếu tố tương phản đó. 3) Nguyễn Tuân đã thể hiện quan niệm nghệ thuật gì qua lời khuyên của Huấn Cao đối với quản ngục ? Ý nghĩa của cái Đẹp với cuộc sống con người được khẳng định như thế nào qua cử chỉ, thái độ và lời nói của quản ngục với Huấn Cao KHÔNG CHÊP MẠNG
25/11/2022 | 0 Trả lời
-
tóm tắt tác phẩm chí phèo với với sự sáng tạo của bản thân
08/12/2022 | 0 Trả lời
-
Cái lò gạch cũ ra đời vào năm nào? Đôi lứa xứng đôi ra đời năm nào? Chí phèo ra năm nào ? 3 tác phẩm ra năm khác nhau
12/12/2022 | 0 Trả lời
-
1 TB chung dùng cho được cả 4 bài 2 đứa trẻ, Chữ người tử tù, Hạnh phúc của 1 tang gia, Chí phèo.
23/12/2022 | 0 Trả lời
-
liên hệ tác phẩm vĩnh biệt cửu trùng đài với đời sống
27/12/2022 | 0 Trả lời
-
Viết 1 đoạn văn khoảng 1/2 trang giấy về Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao. Trong đó có dùng câu bị động và giải thích tác dụng của câu bị động đó?
Làm bài văn khoảng 1/2 trang giấy
30/12/2022 | 0 Trả lời
-
Đề 3:Anh chị hãy Trình bày suy nghĩ của mình bằng một đoạn văn khoảng 150 chữ viết về lòng ích kỉ trong cuộc sống,Đề 5:Hãy viết 1 đoạn văn ngắn khoảng 150 chữ trình bày về việc học đối phó của học sinh cứu với các bạn ơi
sos cứu mình với giải hộ nha cảm ơn rất nhiều ạ
08/01/2023 | 0 Trả lời
-
Chỉ rõ bút pháp tượng trưng được thể hiện qua " Vội Vàng " ?
văn 11 Vội vàng Xuân Diêu
12/02/2023 | 1 Trả lời
-
nêu cảm nghĩ về âm điệu của hai khổ thơ đầu tron bài đây thôn vĩ dạ của hàn mặc tử
cứu em với ạ
23/02/2023 | 0 Trả lời
-
cách viết mở bài vội vàng lớp 11
08/03/2023 | 0 Trả lời
-
Giải giúp mình bài này nhé! ...Đừng bao giờ giữ mãi lòng thù hận cá nhân, hãy biết bao dung và rộng lượng với người khác. Khi bạn tha thứ, tâm hồn bạn sẽ thanh thản hơn rất nhiều. Bởi chúng ta ai cũng cần có những phút để nhìn nhận lại mình và tha thứ sẽ giúp họ nhận ra được rằng: cuộc đời còn có nhiều thứ họ cần phải làm tốt hơn để không phụ lòng bao dung mong mỏi của những người đã tha thứ cho họ. Lòng bao dung và vị tha là điều mà từ xưa đến nay con người luôn hướng đến. Nó không chỉ thể hiện tinh thần tốt đẹp của người Việt mà còn thể hiện tinh thần nhân ái bao la của con người. Ngày nay chúng ta cần đến lòng bao dung để cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn, con người gần gũi với nhau hơn. Lòng bao dung đưa con người đến những giá trị của chân thiện mỹ giúp con người trở nên hoàn thiện hơn”. (NGHỆ THUẬT SÓNG - hanhtrinhdelta.edu.vn) Câu 1: Theo tác giả, tại sao ngày nay mỗi con người chúng ta cần đến lòng bao dung? Câu 2: (1.0đ) Chỉ ra phép liên kết( đoạn 2) và nêu tác dụng của nó?. Câu 3: (2.0đ) Anh/chị hãy trình bày suy nghĩ của mình trong 01 đoạn văn (khoảng 10 đến 12 câu) về ý nghĩa của lòng bao dung trong cuộc sống. Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
28/03/2023 | 0 Trả lời
-
Những biểu hiện Tây hóa của một số người An Nam? Vì sao họ lại làm như vậy?
12/04/2023 | 0 Trả lời
-
Tiếng mẹ đẻ có vai trò gì với vận mệnh dân tộc?
12/04/2023 | 1 Trả lời
-
Raxum Gamzatop từng viết: "Có người tưởng rằng cứ bắt tay vào viết một đề tài vĩ đại là trở thành người vĩ đại. Nhưng cái vĩ đại lại nằm ở sự giản dị. Bằng trải nghiệm văn học của bản thân về nhà văn và tác phẩm trong giai đoạn văn học 1930-1945". Anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.
05/08/2023 | 0 Trả lời
-
Em hãy phân tích bài thơ Nguyên đán của Xuân Diệu.
30/08/2023 | 0 Trả lời
-
Câu chuyện dưới đây gợi cho anh/chị những suy nghĩ gì?
NGƯỜI THỢ XÂY
Người thợ xây nọ đã làm việc rất chuyên cần và hữu hiệu trong nhiều năm cho một hãng thầu xây dựng. Một ngày kia, ông ngỏ ý với hãng muốn xin nghỉ việc về hưu để vui thú với gia đình.
Hãng thầu rất tiếc khi thiếu đi một người thợ giỏi đã tận tụy nhiều năm. Hãng đề nghị ông cố gắng ở lại giúp hãng xây một căn nhà trước khi thôi việc. Ông ta nhận lời.
Vì biết mình sẽ giải nghệ, cùng với sự miễn cưỡng, ông ta làm việc một cách tắc trách qua quít, xây dựng căn nhà với những vật liệu tầm thường, kém chọn lọc, miễn có một bề ngoài đẹp đẽ mà thôi.
Mấy tháng sau, căn nhà đã hoàn thành. Người chủ hãng mời ông đến, trao cho ông chiếc chìa khóa của ngôi nhà và nói: “Ông đã gắn bó và làm việc rất tận tụy với hãng trong nhiều năm, để ghi nhận sự đóng góp của ông cho sự thịnh vượng của hãng, chúng tôi xin tặng ông ngôi nhà vừa xây xong!”.
05/09/2023 | 0 Trả lời
-
Câu truyện trong tác phẩm vợ nhặt đã gợi cho suy nghĩ gì về tình người trong hoạn nạn khó khăn của dân tộc ta. Hãy liên tới thời điểm hiện tại?
15/09/2023 | 0 Trả lời
-
Nhận xét về phong cách nghệ thuật của Nam Cao trong truyện Chí Phèo.
17/09/2023 | 0 Trả lời
-
Hãy viết 1 bài văn nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề và những nét đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng tình huống của Nam Cao ở truyện ngắn "Cái chết của con mực"
28/09/2023 | 0 Trả lời
-
Phân tích nghệ thuật tự sự của tác phẩm "Chí Phèo" của Nam Cao
29/09/2023 | 0 Trả lời
-
Viết đoạn văn (200 từ) trình bày suy nghĩ của em về những đặc sắc chủ đề , đặc điểm nghệ thuật của truyện ngắn Lão Hạc
29/09/2023 | 0 Trả lời
-
Viết 1 đoạn văn khoảng 10 dòng về thông điệp rút ra từ văn bản " Người trẻ và hành trang bước vào thế kỉ XXI"
02/10/2023 | 0 Trả lời
-
Em hãy thử lí giải vì sao Chí Phèo lại chửi như vậy? Mục đích tiếng chửi là gì và cảm nhận tâm trạng của Chí Phèo trong tiếng chửi?
05/10/2023 | 0 Trả lời
-
18/10/2023 | 0 Trả lời