YOMEDIA
NONE

Lập dàn ý Chứng minh ý kiến truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn...

1. Có ý kiến cho rằng:" Truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn đã cho đc thấy bộ mặt sâu xa vô trách nhiệm của xã hội phong kiến đương thời mà điển hình là tên quan phụ mẫu lòng lang dạ sói" Dựa vào văn bản trên, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

ĐB:Lập dàn ý  cho đề bài trên:

Theo dõi Vi phạm
ADSENSE

Trả lời (4)

  • Truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn phản ánh cuộc sống khổ cực của người dân, đồng thời lên án thói vô trách nhiệm của bọn quan lại phong kiến.

    Em hãy làm sáng tỏ nhận định trên bằng một bài văn nghị luận.

    + Kiểu bài: Văn nghị luận chứng minh.

    + Yêu cầu chung: vận dụng văn nghị luận chứng minh và hiểu biết về truyện ngắn Sống chết mặc bay để làm sáng tỏ 2 ý lớn :

    - Truyện phản ánh cuộc sống khổ cực của người dân.

    - Đồng thời lên án thói vô trách nhiệm của bọn quan lại phong kiến, đại diện là tên quan phủ.

    Mở bài:

    - Giới thiệu khái quát về Phạm Duy Tốn, khẳng định: Ông là một trong số nhà văn có thành tựu đầu tiên về truyện ngắn hiện đại.

    - Giới thiệu về truyện ngắn Sống chết mặc bay

    Thân bài:

    Bằng việc phân tích sự khéo léo trong việc kết hợp hai phép tương phản và tăng cấp trong nghệ thuật, học sinh làm sáng tỏ 2 ý lớn ( theo yêu cầu của đề bài)

    a) Truyện phản ánh cuộc sống khổ cực của người dân do thiên tai, do sự vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên.

    - Sự tăng cấp trong việc miêu tả cảnh trời mưa, cảnh nước sông dâng cao, nguy cơ vỡ đê ...

    - Sự tăng cấp trong cảnh hộ đê của người dân: vất vả, căng thẳng, nguy cấp qua tiếng trống đánh, tiếng ốc thổi, tiếng người gọi nhau ...

    - Tình cảnh thê thảm của những người dân chân lấm tay bùn, đem thân hèn yếu ra chống đỡ với sức mưa to, nước lớn của trời ...

    - Sự bất lực của sức người trước sức trời, thiên tai giáng xuống, đe dọa tính mạng của người dân...

    b) Lên án gay gắt thói vô trách nhiệm của bọn quan lại phong kiến, tên quan phủ là đại diện:

    - Bằng nghệ thuật tương phản, tác giả đã vạch trần thói vô trách nhiệm của tên quan phủ: cảnh người dân hộ đê trong tình thế nguy kịch tương phản với cảnh tên quan phủ đang cùng nha lại chơi bài trong đình với không khí tĩnh mịch ...

    - Niềm cảm thương với sự khổ cực của người dân

    - Lên án gay gắt thói vô trách nhiệm của bọn quan lại phong kiến, tên quan phủ là đại diện; Sự vô trách nhiệm của tên quan phủ qua việc làm "hộ đê": tư thế, cách ngồi, lời nói, thái độ vô trách nhiệm khi biết tin đê vỡ ...

    Ý khái quát:

    - nêu nhận xét về giá trị hiện thực và nhân đạo được thể hiện qua truyện: phản ánh nỗi khổ cực của người dân và thể hiện niềm cảm thương của tác giả trước cuộc sống cơ cực, lầm than của người dân do thiên tai, do thói vô trách nhiệm của bọn quan lại phong kiến đưa đến...

    Kết bài:

    - Khẳng định lại giá trị nội dung của truyện ngắn.

    - Có thể liên hệ hoặc mở rộng bằng một số tác phẩm đã học ...

      bởi B Ming_ 23/04/2019
    Like (0) Báo cáo sai phạm
  • YOMEDIA

    Video HD đặt và trả lời câu hỏi - Tích lũy điểm thưởng

  • I. Mở bài

    -     Văn xuôi quốc ngữ buổi đầu đã có sự đóng góp của Phạm Duy Tốn. Truyện ngắn Sống chết mặc bay của ông là một trong những thành tựu đầu tiên của dòng văn học hiện thực thuở sơ khai. Truyện ngắn được đăng tải trên báo Nam Phong số 18, tháng 12-1918.

    -     Truyện kể chuyện một quan phụ mẫu ung dung ăn chơi, bài bạc trong cảnh vỡ đểlàm cho nhân dân trên một vùng rộng lớn chìm đắm trong thảm họa. Tác giả đã lên án thói vô trách nhiệm, bộ mặt vô nhân đạo của bọn quan lại trong xã hội thực dân nửa phong kiến.

    -     Tên quan phụ mẫu được miêu tả bằng những chi tiết rất hiện thực, có giá trị tố cáo sâu sắc.

    II. Thân bài

    -     Sống sang trọng xa hoa:

    + Đi hộ đê mà mang theo ống thuốc bạc, đồng hồ vàng, dao chuôi ngà, ống vôi chạm... trông mà thích mắt.

    + Ăn của ngon vật lạ: yến hấp đường phèn.

    -     Sống nhàn nhã vương giả:

    + Trong lúc hàng trăm con người đội đất, vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy, trong mưa gió lướt thướt như chuột lột thì quan phụ mẫu “uy nghi, chễm chệ ngồi” trong đình đèn thắp sáng choang.

    + Quan dựa gối xếp, có lính gãi chân, có lính quạt hầu, có tên chực hầu điếu đóm.

    + Trong lúc trăm họ “gội gió tắm mưa, như đàn sâu lũ kiến” ở trên đê, thì trong đình, quan ngồi trên, nha ngồi dưới, nghi vệ tôn nghiêm, như thần như thánh...

    -     Ăn chơi bài bạc, thản nhiên ung dung:

    + Đê sắp vỡ! “Mặc! Dân, chẳng dân thời chớ!”. Quan lớn ngài ăn, ngài đánh; người hầu, kẻ dạ, kẻ vâng!

    + Quan lớn ù thông, xơi yến, vuốt râu, rung đùi, mắt mải trông đĩa nọc.

    -     Sống chết mặc bay:

    + Có người khẽ nói: “dễ có khi đê vỡ”, quan gắt: “mặc kệ!”.

    + Có người nhà quê hốt hoảng chạy vào đình báo “đê vỡ mất rồi!”, quan phụ mẫu quát: “Đê vỡ rồi, thời ông cắt cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày!...”.

    + Quan sai bọn lính đuổi người nhà quê ra khỏi đình, rồi vẫn thản nhiên đánh bài.

    + Quan vỗ tay xuống sập kêu to, tay xòe bài, miệng cười: “Ù! Thông tôm chi chi nẩy!... Điếu, mày!”.

    -     Quan sung sướng ù ván bài to khi đê đã vỡ: Cả một miền quê nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết: kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn... lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết!

    -     Nghệ thuật tương phản đã vạch trần và lên án thói vô trách nhiệm, nhẫn tâm, vô nhân đạo của bọn quan lại, coi thường tính mạng và đời sống nhân dân. Chúng nó chỉ lo chơi bời bài bạc, ăn chơi hưởng lạc, còn nhân dân thì “sống chết mặc bay”.

    III. Kết bài

    -     Một lối viết ngắn, sắc sảo. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong thế tương phản rất đặc sắc. Câu chuyện đầy kịch tính, thương tâm, giàu giá trị tố cáo hiện thực và tinh thần nhân đạo.

    -     Xây dựng thành công nhân vật quan phụ mẫu, mệnh danh là “cha mẹ dân” mà coi tính mạng của dân như rơm rác, “sống chết mặc bay!”. Tên quan phụ mẫu khá điển hình cho sự thối nát của chế độ quan trường thời Pháp thuộc.

    -     Đâu chỉ có tên quan phụ mẫu thôi nát! Hắn là một trong hàng ngàn hàng vạn bọn quan lại ngày xưa; hắn là sản phẩm, là công cụ đắc lực của chế độ thực dân nửa phong kiến thôi nát.

      bởi Najoon Jeon 24/04/2019
    Like (0) Báo cáo sai phạm
  • I/ GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM

    1/ Tác giả

                – Tác giả Phạm Duy Tốn (1883 – 1924) quê ở làng Phượng Vũ, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội), ông sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, là người viết văn và làm báo.

                – Văn xuôi bằng chữ quốc ngữ buổi đầu có sự đóng góp của Phạm Duy Tốn với tác phẩm “Sống chết mặc bay” được đánh giá là thành tựu đầu tiên của dòng văn học hiện thực buổi sơ khai.

    2/ Tác phẩm

                – Tác phẩm này được viết vào tháng 7 – 1918, được đăng tải trên tạp chí Nam Phong số 18, tháng 12 – 1918.

    II/ HƯỚNG DẪN HỌC SINH CẢM THỤ VĂN BẢN

    1/ Về nội dung

                – Nội dung truyện kể về một tên “quan phụ mẫu” có thái độ vô trách nhiệm, trong cảnh vỡ đê vẫn ung dung ăn chơi, cờ bạc, trong khi đó nhân dân cả một vùng chìm đắm trong lụt lội, một thảm cảnh của thiên tai.

                – Tác phẩm đậm giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.

                – Tác giả phản ánh bộ mặt thật của giai cấp thống trị, phê phán và lên án mạnh mẽ bọn quan lại phong kiến mang danh là cha mẹ dân nhưng để dân “sống chết mặc bay” và bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc tới những người dân nghèo khổ.

                – Tác phẩm đã dựng lên hai mặt tương phản gay gắt: Một bên là người dân vật lộn, chống chọi với mưa gió hết sức căng thẳng, vất vả. Bên kia là viên quan đi hộ đê ngồi chỗ an toàn, nhàn nhã, mải mê bài bạc, không cho phép ai nấy quấy rầy ván bài của mình, coi việc đánh bài là trên hết, mặc dân sống chết khi đê vỡ.

    2/ Về nghệ thuật

                – Đây là truyện ngắn viết theo kiểu hiện đại bằng chữ quốc ngữ. Nhân vật bước đầu đã có tính cách. Nhân vật quan phụ mẫu được xây dựng khá sắc nét, bộc lộ bản chất xấu xa, vô trách nhiệm qua các hành động, lời nói của y với tay chân và người dân.

                – Nghệ thuật tương phản và tăng cấp kết hợp với lời bình luận trực tiếp để tó cáo và phê phán. Lối kể chuyện cụ thể, sinh động, sự kết hợp với các chi tiết rất thực với đời sống hằng ngày đã tạo nên một sự hứng thú cho người đọc, người nghe.

                – Tác phẩm có sự kết hợp đa dạng các hình thức ngôn ngữ: ngôn ngữ kể chuyện, ngôn ngữ miêu tả, ngôn ngữ bình luận. Giữa ngôn ngữ và tính cách nhân vật có sự liên hệ chặt chẽ. Ngôn ngữ phản ánh tính cách nhân vật. Đây cũng là sự thành công trong nghệ thuật của tác giả.

    III/ HƯỚNG DẪN HỌC SINH PHÂN TÍCH VĂN BẢN

    1/ Bố cục

                Truyện ngắn: “Sống chết mặc bay” có thể chia làm 3 đoạn như sau:

                – Đoạn 1: Từ đầu đến “…Khúc đê này hỏng mất”. Toàn đoạn cho biết nguy cơ đê bị vỡ và sự chống đỡ của người dân.

                – Đoạn 2: Tiếp theo đến “…Điếu mày!”: Đoạn cho thấy tên quan phụ mẫu rất vô trách nhiệm, ung dung ăn chơi cờ bạc trong cảnh vỡ đê.

                – Đoạn 3: Phần còn lại: Nói về hậu quả đê vỡ, nhân dân lâm vào cảnh “nghìn sầu muôn thảm”.

    2/ Phân tích cụ thể

    a/ Đoạn 1

                – Mở đầu truyện ngắn là tình huống vô cùng hiểm nguy của khúc đê sông Nhị Hà được tác giả miêu tả bằng nhiều chi tiết cụ thể về thời gian và không gian: “Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng X. thuộc phủ X. xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất”.

    Hình ảnh người dân hốt hoảng, lo lắng, tất bật… tìm mọi cách để giữ đê trước sức nước khủng khiếp, cũng được miêu tả bằng ngòi bút hiện thực thấm đẫm cảm xúc xót thương: “kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quả khuỷu chân, người nào người nấy lướt thướt như chuột lột…”

                – Không khí căng thẳng, hãi hùng được tạo nên từ sự đối lập giữa sức người và sức nước, sự pha trộn các âm thanh: “Tuy trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai ai cũng mệt lử cả rồi…”. Cảnh dân phu đang loay hoay, tuyệt vọng chống chọi với nước để cứu đê là để chuẩn bị cho sự xuất hiện của cảnh tượng hoàn toàn trái ngược. Hai cảnh tượng cùng diễn ra ở một thời điểm nguy cấp, ở cùng trên một mối đê với những con người có chung bổn phận bảo vệ khúc đê xung yếu đã cho thấy hai cách ứng xử ngược chiều.

    b/ Đoạn 2

                – Tác giả kể chuyện viên quan phủ mải mê, chơi tổ tôm với đám quan lại dưới quyền và được lũ sai nha, lính lệ hầu hạ, cung phụng đến nơi đến chốn. Giọng văn tường thuật khách quan thật cụ thể, chi tiết nhưng đằng sau nó chứa chất thái độ mỉa mai, châm biếm và phẫn uất.

                – Cảnh tên quan đang cùng nha lại chơi bài trong đình được khắc họa với không khí tĩnh mịch, trang nghiêm: quan phụ mẫu “uy nghi, chễm chện ngồi”, trong đình đèn thắp sáng choang. Không những thế quan dựa gối xếp, có lính gãi chân, có lính quạt hầu, có tên chực hầu điếu đóm.

                – Hình ảnh tên quan phủ đi “hộ đê” được tác giả khắc hoạ với “cuộc sống hết sức nhàn nhã vương giả”, đi hộ đê mà mang theo ống thuốc bạc, đồng hồ vàng, dao chuôi ngà, ống vôi chạm, ăn thì ăn yến hấp đường phèn. Chỗ ngồi cao nhất của quan là “trong đình” khi quan ngồi trên thì nhà ngồi dưới, nghi vệ tôn nghiêm như thần như thánh.

                – Trong khi đi “đốc thúc việc hộ đê” thì quan vẫn ăn chơi, cờ bạc, vẫn thản nhiên ung dung trong khi dân đang phải tắm mưa gội gió. Khi có người báo tin đê vỡ thì quan gắt “mặc kệ”. Khi có người nhà quê hốt hoảng chạy vào đình báo thì quan quát: “Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày!”.

                – Mồm quan thì quát dân, thậm chí sai lính đuổi người nhà quê ra khỏi đình, sau đó thì lại tiếp tục vui mừng vì đã ù ván bài, đó là thái độ vô trách nhiệm của bọn quan lại phong kiến.

                – Dụng ý của tác giả khi dựng lên cảnh tương phản này nhằm mực đích so sánh, tô đậm sự đối lập của hai cảnh tượng, hai tầng lớp khác nhau. Một bên là người đại diện cho quyền lực, là bậc mẫu nghi thiên hạ thì lại vô trách nhiệm, chỉ biết ăn chơi hưởng lạc. Một bên là nhân dân lao động đang phải gồng mình chống chọi với thảm cảnh của thiên nhiên trong tâm trạng lo lắng tuyệt vọng khôn cùng.

                – Hậu quả tất yếu, sự vô trách nhiệm của tên quan đã dẫn tới cảnh đê bị vỡ. Hình ảnh đối lập sắc nét nhất, quan sung sướng ù ván bài to “Ừ! Thông tôm, chỉ chi nảy!… Điếu, mày!”, ngoài kia dân đang khổ vì nước lụt.

                – Biện pháp tương phản, tăng cấp được sử dụng triệt để.

                – Ngôn ngữ đối thoại phát huy tác dụng tối đa để các nhân vật bộc lộ tính cách và tâm trạng.

                – Ngôn ngữ gián tiếp của người kể chuyện chỉ còn giữ vai trò dẫn truyện. Đặc biệt, tác giả có sự thay đổi và kết hợp giọng điệu rất linh hoạt: giọng văn xót xa thương cảm ở đoạn đầu chuyển thành giọng giễu nhại, chỉ trích. Giọng chỉ trích, giễu nhại mở rộng thành mạch bình phẩm không thể kìm nén về nhân cách “quan phụ mẫu”: “Ngài mà còn dở ván bài, hoặc chưa kết hội thì dầu trời long đất lở, đè vỡ dân trôi, ngài càng thây kệ”; “Mặc! Dân, chẳng dân thời chớ! Con bài ngon há nỡ bỏ hoài ru! Quan lớn ngài ăn, ngài đánh; người hầu kẻ dạ, kẻ vâng. Sướng bao nhiêu, thích bao nhiêu. Lúc quan hạ, bài ù, ai ai là người chẳng ngợi khen tấm tắc! Một nước bài cao, bằng mấy mươi đê lở, ruộng ngập! Vậy mà không hiểu thời thật là phàm!”. Những lời phẩm bình ấy sẽ được chứng minh bằng cảnh tượng diễn ra ở phần cuối câu chuyện.

    c/ Đoạn 3 

     – Đoạn cuối truyện ngắn giống như một màn kịch ngắn, chia thành lớp lang, có thắt nút, mở nút. Xung đột được mở ra ngày càng tăng cấp và lên đến đỉnh điểm. Lúc quan ù ván bài thì cũng là lúc ngoài kia đê vỡ, nước trần lênh láng xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết. Lúc quan vui nhất cũng là lúc bi kịch của dân lên đến cao nhất. Các biện pháp tương phản, tăng cấp được sử dụng triệt để, làm cho kịch tính ngày càng gay gắt.

                – Phép tăng cấp được tác giả sử dụng rất khéo léo, cụ thể như sau:

                + Sự tăng cấp trong việc miêu tả mức độ của trời mưa đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự còn hoặc mất của con đê, cả khúc đê có thể bị vỡ bất cứ lúc nào. Tiếng trống vẫn đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau. Mưa mỗi lúc một tầm tã, nước sông càng dâng cao, nhân dân thì đã mệt mỏi, đuối sức vì ngày đêm vật lộn với sự khắc nghiệt của thời tiết.

                + Sự tăng cấp trong việc miêu tả mức độ đam mê bài bạc của tên quan phủ được khắc hoạ rõ nét qua thái độ vô trách nhiệm đáng phê phán và lên án. Đê thì sắp vỡ mà tên quan không hề lo lắng, vẫn ngồi trong đình tận hưởng sự sung sướng, ăn những món ăn ngon, có kẻ hầu ăn, hầu chơi.

                + Vì thú chơi bài mà quan có thể bỏ qua tất cả, bỏ qua sự sống chết của biết bao người dân trong gang tấc. Quan chơi bài trong sự nhàn hạ. chỉ có người báo tình hình đê thế nào là quan sai lính đuổi ra, gắt lên và quát tháo đòi cách cổ, bỏ tù. Sự vô lí trong hành vi của quan ngày càng hiện rõ đó là thành công trong việc sử dụng nghệ thuật tăng cấp của tác giả.

                – Tác dụng của sự kết hợp hai nghệ thuật tương phản và tăng cấp trong việc vạch trần bản chất của viên quan nhằm dụng ý phê phán sắc nét. Việc chơi cờ bạc là thói xấu phổ biến của bọn tham quan, nhưng đặt trong hoàn cảnh nhân dân đang “ngàn cân treo sợi tóc” đang vật lộn với cái chết thì rất đáng lên án.

                + Tính mạng và tài sản của nhân dân đang bị huỷ diệt trong tầm tay của quan, liệu quan có xứng đáng là “phụ mẫu” của dân chúng không. Quan sung sướng khi thắng ván bài, nhưng có đáng sung sướng không khi đê vỡ, bao người dân khổ sở cùng cực. Cười trên nỗi đau và sự mất mát của người dân, chỉ có kẻ mất hết tính người mới có hành vi như vậy.

                – Nhờ sự kết hợp hai hình thức nghệ thuật này mà chất hiện thực và sức cộng phá chĩa vào bọn tham quan vô lại càng đậm nét.

                Như vậy:

                – Truyện “Sống chết mặc bay” là thành tựu mở đầu của dòng văn học hiện thực. Tác giả đã phản ánh rõ nét bộ mặt của giai cấp thống trị, bọn tham quan mất nhân tính, chúng chỉ biết ăn chơi hưởng lạc mà quên đi vai trò và trách nhiệm của mình, có biết bao người mất nhà, tan nát cơ nghiệp vì bão lũ, tình cảnh thật xót xa.

                – Giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện ở sự cảm thông sâu sắc, sự chia sẻ và đồng cảm với nỗi khốn khổ của người lao động trước cảnh thiên tai. Vì thái độ vô trách nhiệm của bọn quan lại mà nhân dân điêu đứng, khốn cùng.

                – Gíá trị nghệ thuật thể hiện ngay ở chữ viết, viết theo kiểu hiện đại là chữ quốc ngữ. Hình tượng nhân vật đã bắt đầu được khắc hoạ rõ nét qua hình tượng quan phụ mẫu, sự biểu hiện ở tính cách ngang tàn, thái độ vô trách nhiệm,…

                – Biện pháp nghệ thuật tương phản, tăng cấp và những lời bình luận trực tiếp làm tăng sức mạnh cho lời tố cáo và phê phán, càng đọc thì hình tượng quan phụ mẫu càng bộc lộ sự xấu xa, đê tiện

      bởi phùng kim huy 25/04/2019
    Like (0) Báo cáo sai phạm
  • thank you!

      bởi Lê Chí Thành 03/05/2019
    Like (0) Báo cáo sai phạm

Nếu bạn hỏi, bạn chỉ thu về một câu trả lời.
Nhưng khi bạn suy nghĩ trả lời, bạn sẽ thu về gấp bội!

Lưu ý: Các trường hợp cố tình spam câu trả lời hoặc bị báo xấu trên 5 lần sẽ bị khóa tài khoản

Gửi câu trả lời Hủy
 
NONE

Các câu hỏi mới

AANETWORK
 

 

YOMEDIA
AANETWORK
OFF